Chuly sưu tầm
Nhà có ma
Tác Giả: Tạ Quang Khôi
Dọn đến nhà này cả tuần hắn mới bắt đầu nghe như có người đi lại trong nhà. Hắn nghĩ tới lời báo trước khi mua căn nhà trong chúng cư này. Nhà để bảng bán đã lâu mà không ai chịu mua. Giá nhà mỗi ngày một sụt xuống một cách thảm hại, không bằng nửa giá những căn chung quanh. Chủ nhà chỉ muốn bán tống bán tháo cho rảnh nợ. Đã thay tới ba người giới thiệu nhà đất mà nhà vẫn trơ trơ ra đó. Khi bà giới thiệu nhà đất đưa hắn đến coi nhà, hắn ưng ý liền. Cái gì cũng còn tốt nguyên, có thứ còn mới toanh như cái tủ lạnh và cái máy rửa chén. Hắn ngạc nhiên hỏi bà “nhà đất” :
“Nhà ngon lành như thế này, lại ở khu thuận tiện đủ mọi bề, giá rẻ không bằng nửa các nhà khác, sao không ai chịu mua ? Có khuyết điểm gì ? Xin bà nói thiệt để tôi còn tính.”
Bà “nhà đất” ngập ngừng khá lâu, rồi đáp :
“Theo luật, tôi không được nói dối khách hàng, vì sau đó, khi khám phá ra cái không ổn bên trong, quý vị có thể trả lại nhà mà chúng tôi phải chịu hết mọi phí tổn… Người ta nói…nhà này có ma…nên ai cũng sợ, nhất là những gia đình có con nít.”
“À, ra thế !” Hắn gật gù. “Vậy, tôi không có vợ, không có cả con nít, trơ trọi có một thân một mình thì không sợ ?”
Bà “nhà đất” rụt rè :
“Tôi không dám có ý kiến gì hết. Mua hay không là tùy ông. Nhưng khi tôi đã nói thật hết mà ông vẫn cứ mua thì sau này ông không có quyền khiếu nại, thưa kiện gì hết.”
Hắn cười :
“Tôi sẽ trả lời bà trong vòng một tuần. Để tôi nghĩ xem tôi có thể sống chung với ma không ? Tôi cũng thuộc loại…ma mãnh lắm, có khi ma lại bỏ đi mất tiêu đấy.”
Nghe hắn nói thế, bà “nhà đất” nghĩ rằng hắn sẽ không mua căn nhà này. Ai mà ở chung với ma với quỷ được. Nhưng chỉ mới có hai hôm, hắn đã gọi bà để yêu cầu bà xúc tiến các thủ tục mua nhà. Không những thế, vì giá nhà quá rẻ, hắn không cần vay tiền ngân hàng, trả hết một lúc. Việc mua bán thật nhanh chóng, ngoài sức tưởng tượng của bà “nhà đất” và chủ nhà.
Hôm ăn mừng nhà mới, hắn nói với bạn bè :
“Ai sợ ma, chứ tớ thì không. Đến cộng sản là quỷ khát máu mà tớ còn coi như pha nữa là. Quỷ còn dữ và lưu manh hơn ma. Chúng nó đánh lừa mình vào trại tù khổ sai bằng cách nói láo rằng đi học tập cải tạo trong vòng một tháng. Khi biết là bị lừa, tớ tìm cách vượt ngục ngay. Cả cái tập đoàn quản giáo ngu hơn heo của chùng bị tớ lừa hết. Trốn thoát rồi, tớ đâu có dại mà về Saigon, tớ ra bờ biển ngay rồi tìm đường vượt biên. Bọn quỷ đỏ mà lúc nào mồm miệng cũng đầy máu me của người dân lành tớ còn không sợ, bây giờ chả lẽ lại sợ mấy em ma oắt con này ? Rồi các cậu coi, ma sẽ phải cuốn gói mà đi để tớ sống phây phây.”
Một người tò mò hỏi :
“Thế từ hôm dọn tới đây, cậu đã thấy gì chưa ? Có em ma oắt con nào quấy phá chưa ? “
Hắn cười hì hì :
“Vì dọn nhà mệt quá, rồi vẫn phải đi làm, tớ cứ ngả lưng xuống là ngáo một mạch đến sáng. Chưa thấy em ma nào tới hỏi thăm. Mà cũng chưa thấy động tĩnh gì.”
Nhưng sau một tuần được ngủ bù, hết mệt, hắn bắt đầu thấy có “động tĩnh”. Đang ngủ, chợt thức giấc, hắn cảm thấy như có người đứng cạnh giường. Hắn mở mắt thì không thấy gì, ngoài một vài vệt sáng trên trần nhà từ ngọn đèn dưới đường hắt lên. Tuy vẫn nói mạnh rằng không sợ, hắn cũng thấy rờn rợn, hơi gai gai ở sống lưng. Dù cộng sản có là quỷ, chúng vẫn là những vật cụ thể, vẫn dễ đối phó hơn. Ma vô hình, chỉ cảm thấy mà không sờ mó, đụng chạm được. Hắn nằm im lặng, mở to mắt, đầu óc suy nghĩ thật nhanh xem nên đối phó cách nào. Đánh lộn với nó ? Có biết nó ở đâu mà đánh ! Hắn nghĩ tới roi dâu mà người ta vẫn đồn rằng trị ma rất hiệu nghiệm. Ở xứ Mỹ này, kiếm đâu ra cây dâu ? Nước tiểu, đồ dơ ? Càng không được, chỉ tổ làm nhà cửa hôi hám, dơ bẩn. Mà hắn cũng không tin ở điều bậy bạ đó. Hay là nhờ thầy pháp cúng kiếng đuổi tà, đuổi ma ? Ôi, chuyện mê tín dị đoan ! Làm như vậy chỉ chứng tỏ cho mọi người biết mình bất lực trước “con ma oắt con” mà hắn trót huênh hoang coi thường. Nghĩ ngợi một lúc, hắn ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Hôm sau, khi hắn thức giấc thì trời đã sáng rõ. Nhớ ngay đến chuyện ma đêm qua, hắn vội vàng đi quanh nhà để xem có gì thay đổi khác lạ không ? Tất cả đều bình thường. Trong khi ngồi ăn điểm tâm, hắn chợt nhận ra rằng nếu quả thật đêm qua hắn đã gặp ma thì con ma này thuộc loại hiền lành, không quấy phá gì. Nó chỉ muốn báo cho hắn biết là có sự hiện diện của nó trong căn nhà này. Như vậy, nó là loại ma có thể nói chuyện được. Bỗng hai tiếng “nói chuyện” làm hắn chú ý. Ừ nhỉ, hắn thầm nhủ, sao mình không thử nói chuyện với ma ? Mà “nói” bằng cách nào đây ? Tiếng Việt hay tiếng Anh ? Ma Việt hay ma Mỹ ? Mà cũng có thể là ma xứ khác vì ở cái nước có nhiều chủng tộc này làm sao mà biết chắc được.
Trong lúc lái xe đến sở, hắn bỗng nghĩ tới cầu cơ. Hắn đã nhiều lần, khi còn ở trong nước, thấy người ta “nói chuyện” với linh hồn người đã khuất bằng cách đó. Nhưng hắn chả bao giờ tin cái chuyện mà hắn cho là bịa đặt nhằm mục đích giải trí. Thật ra, cũng có đôi lần hắn nửa tin nửa ngờ vì người “ngồi đồng” không hề biết làm thơ lại có thể viết ra nhiều câu thơ tuy chẳng hay ho gì cũng vẫn có vần có điệu đàng hoàng. Nếu bảo rằng người đó đã làm thơ thì thật đáng ngờ. Chỉ có một điều hắn tin chắc là có linh hồn. Bây giờ, sau một đêm “tiếp xúc” với một bóng ma vô hình thì niềm tin đó càng mạnh hơn.
Câu chuyện ma tạm thời bị hắn quên đi trong những giờ bận rộn của sở. Đến khi ra xe về nhà vào buổi chiều hắn mới chợt nhớ lại. Việc đầu tiên trước khi ăn cơm, hắn tìm một miếng bìa cứng lớn, nắn nót viết hai mươi lăm chữ cái, từ A đến Z. Theo hắn biết, miếng gỗ dùng để di chuyển trên những hàng chữ là một miếng gỗ lấy từ mảnh ván thiên của một quan tài mới được bốc mộ. “Như vậy mới linh !:” Có người bảo hắn thế. Bây giờ đào đâu ra miếng gỗ đặc biệt đó, hắn thầm nghĩ. Nhìn quanh nhìn quẩn, cuối cùng hắn đành chọn cái thước gỗ mà từ lâu vẫn bị bỏ quên trong ngăn kéo bàn làm việc. Nhưng cái thước dù chỉ có hai mươi phân tây cũng quá dài để làm miếng gỗ cầu cơ. Thế là hắn phải tìm cách cưa ngắn, chỉ lấy một mẩu khoảng ba phân vuông. Sơ sơ thế mà cũng mất ngót một tiếng đồng hồ. Hắn dẹp hết đồ trên mặt bàn cà phê trong phòng khách, bầy bàn cầu cơ lên đó, sẵn sàng tiếp chuyện với ma. Hắn nhìn “tác phẩm” của mình với một vẻ đắc ý.
Sau khi tắm rửa và ăn tối, hắn ngồi cạnh bàn cầu cơ, chờ đợi. Nhưng hắn chờ mãi, chả thấy ma đâu. Đến gần mười giờ thì hắn bắt đầu buồn ngủ. Hắn chợt nhớ rằng theo những người có kinh nghiệm về thế giới vô hình, ma chỉ hiện ra từ nửa đêm trở đi, nghĩa là sau giờ Tý. À, nếu thế, hắn tự nhủ, tối nay mình ngủ trên cái sô pha này, có triệu chứng gì là có thể đối thoại ngay được. Hắn vào phòng ngủ lấy gối chăn ra phòng khách. Hắn tắt hết đèn trong nhà, trừ một ngọn nhỏ ở lối cửa ra vào . Vừa ngả lưng xuống, hắn ngủ thiếp đi ngay.
Không biết vào mấy giờ giữa đêm, hắn chợt thức giấc và liền cảm thấy có người đứng cạnh. Tinh thần đã được sửa soạn trước, hắn bèn ngồi dậy, nói thầm trong óc : “OK ! Nào mình nói chuyện..” Rồi hắn đặt tay lên miếng gỗ trên bàn cầu cơ. Nhưng hắn chưa kịp đặt câu hỏi, miếng gỗ đã tự động di chuyển :”OK ! Mình nói chuyện.” Hắn giật mình, lặng người đi mấy giây. Như vậy, ma đọc được ý nghĩ của hắn. Chưa định thần được, hắn đã thấy tay hắn đẩy miếng gỗ lướt trên các hàng chữ :
“Đừng có sợ. Tôi không phải là ma.”
Bây giờ, hắn đã lấy lại bình tĩnh, hỏi thầm trong óc :
“Vậy hồn là người Việt Nam ?”
“Không, khi đã ra khỏi cuộc sống, không còn lệ thuộc vào chủng tộc nữa.”
“À, ra thế ! Xin cho biết tên lúc còn sống ?”
“Không nhớ tên vì tên tuổi chỉ là cái phụ thuộc bên ngoài, không nhất định, không chắc chắn. Bằng cớ là một người có thể có nhiều tên. Khi ra khỏi cuộc đời, chỉ còn lại linh hồn, cái tinh túy của cuộc sống, những phần phụ thuộc đều tự nó biến đi. “
“Vậy hồn ở nhà này lâu chưa ?”
“Không có gì gọi là lâu với chóng. Thời gian chỉ được kể tới khi còn sống ở cõi đời vì đó là sự xếp đặt của con người. Khi đã ra khỏi cuộc sống, hồn không còn lệ thuộc vào những sự xếp đặt đó nữa.”
Hắn có vẻ không đồng ý, liền hỏi :
“Nếu không có thời gian, không có giờ giấc, tại sao hồn chỉ xuất hiện sau nửa đêm ? Tức là hồn cũng biết lúc nào sáng, lúc nào đêm.”
“Nói vậy là sai. Trong thế giới vô hình này, làm gì có đêm và ngày. Lúc nào cũng như lúc nào.”
“Vậy sao hồn không…dám xuất đầu lộ diện giữa ban ngày ban mặt ? Cứ phải chờ đến nửa đêm mới quấy phá người sống ?”
“Thật ra, hồn lúc nào cũng quanh quẩn ở đây, nhưng người sống không thể nhận biết là vì muốn tiếp xúc với thế giới vô hình đầu óc người sống phải trong sáng, không bị vẩn đục vì những tạp niệm, những lo lắng, những băn khoăn hàng ngày.”
Hắn vẫn nghi ngờ :
“Vậy sao có những người không cần nghỉ ngơi để lòng được thanh tịnh vẫn có thể gặp…ma ? Cũng có người gặp ma ngay khi vừa chập tối. Hồn giải thích làm sao những chuyện đó.”
Hắn nghe như hồn ma cười :
“Như vậy chính người đã tự mâu thuẫn. Lúc thì nói nửa đêm lúc thì nói chập tối. Riêng điều đó đã chứng tỏ hồn lúc nào cũng lẩn quất đâu đây, chỉ người không nhận biết thôi. Còn những người không cần nghỉ ngơi để lòng thanh tịnh vì lòng họ đã trong sáng sẵn. Những người càng ít học càng ít suy nghĩ càng dễ cảm thông với vạn vật. Học hành, suy nghĩ làm đầu óc con người phức tạp, rối ren, nên xa rời cái gốc của mình, tức là thiên nhiên, vạn vật.”
Hắn thấy lời giải thích vẫn chưa ổn, nhưng không biết cãi làm sao nên đành giữ im lặng một cách ấm ức. Rồi hắn chợt hỏi :
“Hồn là đàn ông hay đàn bà ?”
“Sau khi ra khỏi cõi đời, không còn là đàn bà hay đàn ông nữa. Chỉ phân biệt nam hay nữ khi còn ở trần thế. Bây giờ hồn thuộc loại vô tính, không là giống cái cũng không giống đực.”
“Lại đực hay lại cái ?” Hắn lại cảm thấy như có tiếng cười. Cuộc nói chuyện mỗi lúc một trôi chẩy hơn. Rồi đến cái độ hắn không cần xử dụng bàn cầu cơ nữa. Mỗi lần hắn có một ý nghĩ thì liền ngay trong óc hắn có câu trả lời.
“Không lại đực mà cũng không lại cái.”
“Thế là cái giống gì ?”
“Xin giải thích cho rõ hơn.”
“OK ! Xin nghe.”
“Hơi dài dòng, lôi thôi. Hãy kiên nhẫn.”
Hắn không nghĩ gì nữa, chờ đợi.
“Con người khi sinh ra đều bị ảnh hưởng của vũ trụ tuyến hay cũng có thể coi là những dòng điện đan kết chằng chịt trong vũ trụ. Những dòng điện đó có âm và dương. Người nam thì nhiều dương hơn âm và ngược lại. Có người cho rằng những luồng điện đó là những dây duyên hay dây nợ buộc lấy con người. Muốn thoát ra khỏi các cuộc sống nối tiếp nhau để sang cõi khác, con người làm sao cởi bỏ hết được những sợi dây trói buộc mình, trở thành không âm không dương như hồn bây giờ.”
Hắn chợt ngắt :
“Nếu tôi không lầm, mỗi cuộc sống mà hồn nói tới chính là một kiếp. Có phải vậy không ?”
“Gọi là kiếp hay một lần sống cũng chỉ một cách nói.”
“Vậy, xin gọi là kiếp cho dễ hiểu vì tiếng đó đã quen với mọi người.”
“Cũng được. Một kiếp người !”
“Muốn cởi bỏ hết các sợi dây điện trói buộc mình, tức là không bị ảnh hưởng của vũ trụ tuyến nữa, phải làm cách nào ?”
Hồn ma không trả lời ngay. Dường như có cái gì khó khăn làm nó phải tính toán, suy nghĩ. Chờ lâu, hắn sốt ruột hỏi thêm :
“Hồn còn ở đó hay đã biến đi đâu mất tiêu rồi ?”
“Vẫn ở bên cạnh người đó.”
“Vậy sao không chịu nói gì nữa ?”
Hồn ma ngập ngừng :
“Vì…vì khó nói để người hiểu…Muốn thoát khỏi sự ràng buộc của các sợi dây trong vũ trụ, ta phải…ta phải…làm sao đừng vướng mắc…”
Hắn sốt ruột :
“Vướng mắc cái gì ?”
Hồn ma trả lời một cách khó khăn :
“Vướng mắc những chuyện, những người chung quanh mình để nó biến thành những trói buộc, làm mình không thoát đi được.”
Hắn suy nghĩ một lát, rồi hỏi :
“Có phải hồn muốn nói đến những duyên, những nợ trói buộc con người ta không ?”
Hồn ma có giọng vui mừng :
“Đúng là như vậy.”
Hắn cũng thấy vui, nên nói tiếp ngay :
“Thế tức là phải tu đó ! Tu, theo đạo Phật, là chỉ làm những điều tốt, không làm ác để có thể gây nên nghiệp, tức là món nợ phải trả ở kiếp sau.”
Hồn ma nói ngay :
“Làm tốt cũng không được vì sẽ tạo nên…cái mà người gọi là duyên. Kiếp sau vẫn phải trả cái duyên đó. Duyên hay nợ đều là những ràng buộc để con người cứ luẩn quẩn mãi với cõi sống.”
Hắn thốt kêu thành tiếng :
“Khó quá ! Khó hơn là tu !”
“Tu theo nghĩa mà con người hiểu chỉ là bước đầu tiên cởi bỏ những ràng buộc.”
Hắn thở dài :
“Nếu vậy thì cả trăm kiếp mới cởi bỏ xong. Thôi thì cứ sống bình thường là tốt nhất, miễn không hại ai, không gây thù chuốc oán với ai…Được như vậy cũng khó quá rồi…”
Hồn ma giảng giải thêm :
“Khi mình còn bị trói buộc, điện trong người mình còn mạnh, tự nó hút các dòng điện trong vũ trụ. Vì thế, cứ phải sống hết kiếp này đến kiếp khác.”
Hắn chợt nghĩ :
“Đó là luân hồi.”
Thấy hồn ma không nói gì nữa,hắn lại hỏi :
“Cuộc sống chỉ có ở trái đất này hay còn ở nhiều hành tinh khác nữa? Hình như Đức Phật có nói tới ba ngàn thế giới.”
“Điều đó khó mà biết được, vì khi ra khỏi cuộc sống là quên hết. Sau đó, nếu còn duyên nợ, tức là còn nhiều sợi dây điện trói buộc mình, lại phải đi vào kiếp khác ngay. Cứ liên tục mãi, không thể dứt ra được.”
Hắn hỏi :
“Vậy sao bây giờ hồn không đầu thai kiếp khác và còn nhớ được kiếp vừa qua?”
Hắn phải chờ khá lâu mới thấy ma trả lời :
“Con người chỉ biết rằng có duyên và nợ ràng buộc lấy mình, nhưng không biết rõ duyên ra sao và nợ thế nào. Ngay cả khi đã trả nợ hay đáp lại cái duyên con người cũng không biết hết hay còn.”
“Hồn ở đây lâu chưa ? Mấy chục năm hay mấy trăm năm ?”
“Trong cõi này không có thời gian nên không tính năm, tháng.”
“Vậy tính bằng gì ?”
“Không tính gì hết vì không lâu mà cũng không chóng.”
Đến đây hắn bỗng thấy buồn ngủ, bèn ngáp một cái dài rồi nhìn lên đồng hồ treo tường. Hắn giật mình thấy đã gần ba giờ sáng. Như hiểu ý hắn, hồn ma nói :
“Chúng ta sẽ gặp lại vào lúc khác.”
Hắn bèn ngả lưng xuống ghế dài và ngủ thiếp đi ngay.
Sáng hôm sau, hắn dậy hơi trễ và phải uống mấy ly cà phê thật đậm mới đủ tỉnh táo để làm việc cho sở. Buổi tối, vừa ăn cơm xong, hắn đi ngủ ngay vì sợ nửa đêm phải thức giấc nói chuyện với ma. Nhưng đêm đó và nhiều đêm sau, ma không đánh thức hắn. Mãi đến nửa tháng sau, khi hắn đã thấy tỉnh táo, khỏe khoắn, ma mới trở lại. Hắn hiểu rằng ma muốn để hắn nghỉ ngơi. Thế là hắn có cảm tình với ma. Khi biết ma đã ở cạnh, hắn liền bắt đầu :
“Cảm ơn hồn đã cho tôi được nghỉ ngơi một thời gian. Thế mà từ xưa đến nay, ai cũng nói là ma quỷ thích quấy phá người.”
Hồn ma cười :
“Thật ra, hồn không quấy phá mà cũng không có đủ khả năng làm hại người. Chính người cứ tưởng như vậy nên mình lại làm mình sợ.”
“Có phải hồn muốn nói ‘thần hồn nát thần tính’ không ?”
“Hồn chỉ biết nói một cách dễ hiểu chứ không biết dùng những chữ khó khăn, cao siêu.”
Hắn ngập ngừng một chút rồi hỏi :
“Hồn định ở đây lâu hay chóng ? Bao giờ thì hồn bỏ đi nơi khác ?”
“Như hồn đã một lần nói, lâu hay chóng hồn không tự quyết định được, tất cả đều phụ thuộc vào duyên và nợ. Hết duyên, hết nợ thì tự nhiên đi nơi khác.”
Hắn nửa đùa nửa thật :
“Tôi với hồn có duyên hay có nợ ? Nếu nợ thì ai nợ ai ?…Tôi muốn hồn cứ ở đây mãi với tôi.”
“Hồn cũng không biết là có duyên hay nợ với người, nhưng hồn không tin sẽ ở mãi đây với người được…Mà người không sợ ma hay sao lại thích ở chung với ma ?”
“Trước kia thì cũng hơi sợ thiệt, bây giờ thấy ma lành quá nên có cảm tình.”
Hồn ma cười :
“Lần đầu tiên có người nói là có cảm tình với ma.”
“Đây cũng là lần đầu tiên tôi gặp ma hiền lành…”
“Nghĩa là người đã gặp ma nhiều lần mà toàn là ma dữ ?”
Hắn suy nghĩ một lát rồi đáp :
“Nói thiệt là chưa bao giờ gặp ma. Còn ma dữ là nghe nói lại thôi, chứ chưa bao giờ bị ma quấy phá. Còn lần này thì tôi thực sự có cảm tình với hồn…Từ lâu tôi sống rất cô đơn, không vợ không con, bạn bè chỉ giao thiệp một cách hời hợt, chứ không thân. Nay có hồn, mỗi lần về nhà thấy ấm cúng vì có người để chuyện trò.”
Hắn không khỏi ngạc nhiên thấy mình đã bày tỏ tâm sự với ma. Nhưng quả thật, cuộc sống của hắn rất cô đơn kể từ ngày hắn trốn khỏi trại tù cải tạo. Sau khi vượt ngục, hắn không dám ghé về nhà thăm cô vợ trẻ mới cưới được ít lâu, trước ngày miền Nam xụp đổ. Hắn tìm đường vượt biên ngay. Gần hai năm sau hắn mới liên lạc được với vợ thì nàng đã lấy chồng khác. Trong khi hắn mất tích, bọn cộng sản báo cho vợ hắn biết là hắn đã chết. Tin vợ lấy chồng khác làm hắn buồn rất lâu, cả mấy năm trời mới nguôi ngoai. Hắn không trách vợ nhưng cũng ngạc nhiên về sự thay đổi nhanh chóng của nàng. Trước ngày cưới, hai người đã yêu nhau tha thiết, tưởng không bao giờ có thể quên nhau được dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Từ đó, hắn không còn tin nổi ai nữa. Trong sự liên lạc hàng ngày, hắn gặp nhiều người đàn bà, kể cả những người chưa hề có chồng, nhưng hắn không dám đi quá sâu trong liên hệ tình cảm. Hắn chỉ vui chơi với họ một thời gian rồi mỗi người đi một đường. Thế mà khỏe ! Không ràng buộc, không trách nhiệm. Chính vì thế, đôi khi hắn cảm thấy rất cô đơn. Nhà hắn lúc nào cũng vắng lạnh. Nhiều hôm, hắn không dám về nhà vì cái lạnh lẽo đó. Hắn thèm một hơi ấm cho căn nhà hay chính cho tâm hồn quạnh hiu của hắn. Có lần hắn nghĩ tới chuyện lấy vợ. Nhưng rồi hắn phải dẹp bỏ ý nghĩ đó đi. Tuổi hắn nay đã ngót năm mươi, sống một mình hơn hai chục năm, mọi thói quen đã thành nếp trong hắn, không thể bỏ được nữa. Bây giờ, nếu lấy vợ, hắn sẽ phải thích ứng với cuộc sống mới cho phù hợp với hoàn cảnh của một cặp vợ chồng. Hắn sẽ phải bỏ bớt một số thói quen và tập cho quen những cái mới. Sự bỏ bớt và tập thêm ấy sẽ làm hắn khổ sở ở cái tuổi trung niên này. Rồi hắn sẽ bực bội, khó chịu, cuộc sống hôn nhân sẽ gặp sóng gió. Thà cứ chịu cô đơn lại không chuốc phiền lụy vào mình. Hắn đành kéo dài cuộc sống độc thân.
Nay bỗng thấy mình hợp với hồn ma của căn nhà mới mua thì hắn vừa thích thú vừa ngạc nhiên. Không ngạc nhiên sao được khi con người có thể sống chung một cách vui vẻ, hòa thuận với một hồn ma. Hắn nghĩ tới cái duyên của nhà Phật. Biết đâu hắn và ma chả có duyên với nhau, nhưng không được gặp nhau lúc ma còn sống làm người ở cõi thế. Đến bây giờ mới được gặp thì mỗi người ở một thế giới khác. Có thể đây là cái duyên cuối cùng mà hồn ma còn vướng mắc trước khi được siêu thoát để lên một cõi cao hơn, không còn bị lôi cuốn vào vòng luân hồi nữa. Hắn chợt buồn khi nghĩ tới ngày hồn ma bỏ hắn để siêu thoát. Rồi hắn sẽ lại trở về với cô đơn như trước kia. Căn nhà của hắn sẽ lại vắng lạnh, rồi hắn sẽ lại thui thủi một mình, ra vào buồn tênh.
Đang suy nghĩ vẩn vơ, hắn bỗng thấy hồn ma an ủi :
“Có hợp thì có tan, được lúc nào hay lúc đó, buồn mà làm chi.”
“Hồn…có buồn khi phải xa tôi không ?”
“Khi đến được cái mức vô tính như hồn làm gì còn tình cảm nữa để mà vui hay buồn..”
“Như vậy là hồn trơ như gỗ đá rồi…”
“Gỗ đá cũng còn chịu ảnh hưởng của thời tiết, hồn không chịu ảnh hưởng của bất cứ cái gì, dù hồn vẫn cảm thông với muôn loài, muôn vật.”
“Như vậy hồn phải tu lâu lắm rồi ?”
“Chính hồn cũng không biết nữa.”
Hắn bỗng thở dài :
“Giá tôi cũng được như hồn…”
“Làm việc gì cũng phải có bắt đầu. Muốn trở thành vô tính như hồn, hãy bắt đầu…”
“Bắt đầu làm gì và bắt đầu như thế nào ?”
Hồn ma giữ im lặng khá lâu, hình như để suy nghĩ, rồi đáp :
“Đã tới được trình độ vô tính, hồn không còn nhớ gì nữa. Có lần người nói tới việc gì đó…”
Hắn chợt nhớ :
“Có phải là tu không ?”
Hồn ma công nhận :
“Bắt đầu ở mức thấp nhất là tu…Tu là tự gỡ bỏ dần những vướng mắc, ràng buộc với cuộc sống.”
Hắn nửa đùa nửa thật :
“Ngay ngày mai, tôi sẽ vào một nhà tu…”
Hồn ma cắt lời hắn :
“Cần gì phải vào nhà tu. Vào đó, mà lòng vẫn còn luyến tiếc cõi đời thì cũng như không. Cứ sống bình thường và bắt đầu nghĩ và làm những điều tốt, thế mới là tu.”
Hắn giữ im lặng, vì biết rằng không dễ gì làm được như vậy. Đó là một bước quá cao mà nhiều nhà tu hành cũng chưa đạt tới nổi, trong khi hắn chỉ là kẻ phàm tục.
Từ ngày đó, lần nào tiếp xúc với hắn, hồn ma cũng khuyến khích hắn bắt đầu cởi bỏ mọi ràng buộc, nhất là những ràng buộc về tinh thần và tình cảm. Theo hồn ma, những buồn phiền, những thù ghét, những oán giận, những yêu thương đều không tốt, đều gây nên cái duyên, cái nợ.
Hắn nhận ra một điều là hắn bắt đầu bị ảnh hưởng của những lời khuyến khích đó. Hắn ít liên lạc với bạn bè, xa dần những người thân thuộc. Cho đến một ngày hắn thấy mình nhìn đời một cách bình thản hơn. Mọi chuyện đối với hắn không còn quan trọng nữa. Bây giờ điều quan trọng nhất có lẽ là việc nói chuyện với ma hàng đêm. Xong việc sở, hắn chạy vội về nhà. Bạn bè thấy hắn thưa đi lại thì đoán hắn lại bận bịu với một người đàn bà nào đó. Đã có người hỏi thẳng hắn về người đàn bà hắn mới quen, hắn cho biết hắn vẫn ở nhà và không giao du thân mật với bất cứ ai. Họ không tin nên sau giờ làm việc đã gọi điện thoại để xem hắn có ở nhà thật không. Họ gọi vài lần, rồi có người đến tận nhà để “kiểm tra” bất thình lình. Khi biết hắn không nói dối, họ kháo nhau rằng hắn đã tu thật sự.
Nhưng hắn biết hắn không tu, mà chỉ “nghiện” nói chuyện với ma.
Đến một đêm, hắn không thấy ma hiện ra nói chuyện với hắn nữa. Hắn cố ngồi đợi cho đến sáng mà vẫn không nghe động tĩnh gì. Suốt một tuần liền, hắn đợi chờ và gọi thầm ma. Vẫn chẳng thấy tăm hơi đâu. Cuối cùng hắn đoán ma đã siêu thoát. Hắn ngẩn ngơ nhớ tiếc.
Căn nhà yên lặng quá và trở nên lạnh lẽo khiến hắn muốn dọn đi nơi khác. Nhưng hắn lại biết rằng căn nhà này đã có tiếng là nhiều ma nên khó bán. Làm sao nói cho người ta tin rằng nhà không còn ma nữa, nên hắn mới tính dọn đi. Đó là một điều rất nghịch lý ! Tuy nhiên, hắn cũng thử gọi bà bán nhà đất. Khi biết là hắn, người đã mua căn nhà có ma, bà ta hỏi ngay :
“Ma phá quá, ông không chịu nổi nên muốn bán đi ? Tôi sợ lần này thì khó kiếm được người mua, dù ông có giảm giá nhiều thêm nữa.”
Hắn vội đính chính :
“Không, không phải là tại ma phá quá không chịu nổi. Mà bây giờ…không còn ma nữa. Không còn ma, tôi đâm buồn, muốn bán đi.”
Bà “nhà đất” giữ im lặng một lát, rồi nói dằn từng tiếng :
“Thưa ông, chúng tôi rất bận, thì giờ quý như tiền bạc, làm gì có dư để đùa giỡn như ông. “
Rồi bà cắt diện thoại ngay không để hắn kịp phân trần nửa lời.