Thế lưỡng nan của chủ nghĩa nhân văn

PHẠM NGUYÊN TRƯỜNG –

Thế lưỡng nan của chủ nghĩa nhân văn

.

.

Chương I, Tác phẩm Vạc Dầu Châu Á (trang 19 – 64)

Đặc trưng địa lý của Châu Âu là đất liền, còn Đông Á là biển cả. Ở đây có sự khác biệt căn bản giữa thế kỷ XX và thế kỷ XXI. Khu vực bị người ta giành giật nhiều nhất trên thế giới trong thế kỷ trước nằm ở những vùng đất khô ráo của Châu Âu, đặc biệt là xung quanh các đường biên giới nhân tạo ở phía Đông và phía Tây nước Đức, nơi mà quân đội các quốc gia hoạt động liên tục không ngừng nghỉ. Tuy nhiên, cùng với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, trọng tâm nhân khẩu, kinh tế và quân sự của thế giới chuyển dịch mạnh mẽ về phía đầu bên kia của lục địa Á-Âu, nơi mà “không gian hàng hải” (maritime) chiếm thế thượng phong nằm giữa các trung tâm dân cư chủ chốt. “Không gian hàng hải” mà tôi nhắc tới ở đây có nghĩa là toàn bộ vùng biển, vùng trời và vùng không gian vũ trụ có liên quan: vì từ khi tàu sân bay xuất hiện vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX, các đội hình chiến đấu của không quân và hải quân đã trở nên không thể tách rời, và vai trò của không gian vũ trụ là một yếu tố cộng thêm nếu xét tới khả năng định vị và những hỗ trợ khác của vệ tinh đối với tàu chiến hay máy bay. Vì thế, thuật ngữ hải quân đã trở thành một thuật ngữ chung thể hiện quy mô của những hoạt động quân sự khác nhau. Và cũng đừng nhầm lẫn, hải quân là một thuật ngữ tác chiến. Do địa lý là yếu tố định hình và làm sáng tỏ những ưu tiên (quân sự) khác nhau, hình thể của khu vực Đông Á khẳng định sự xuất hiện của thế kỷ hải quân, và một cuộc chiến tranh trên bộ ở bán đảo Triều Tiên – mặc dù ít có khả năng xảy ra – sẽ là ngoại lệ đáng chú ý.

Đông Á là một khu vực địa lý rộng lớn, kéo dài từ Bắc Cực đến Nam Cực – từ quần đảo Kuril cho đến New Zealand ở phía nam – với đặc điểm là các quần đảo và khu vực bờ biển nằm rải rác khắp nơi, những quần đảo và bờ biển lại này lại cách xa nhau và giữa chúng là hải dương bao la. Thậm chí, nếu xét tới việc công nghệ đã góp phần thu hẹp đáng kể khoảng cách địa lý, ở đây có thể kể tới các loại tên lửa và máy bay phản lực chiến đấu –máy bay có thể được tiếp liệu trên không – khiến cho khoảng cách địa lý trở nên nhỏ lại (đến mức có thể liên tưởng địa lý trở thành một vùng không gian nhỏ đến mức khiến các quốc gia rơi vào triệu chứng “sợ hãi không gian hẹp” ), biển cả đóng vai trò như một rào chắn chống lại những hành vi hung hăng, hiếu chiến; ít nhất, ở mức độ mà đất liền không thể đảm đương được. Biển cả, khác với đất liền, tạo nên những đường biên giới có thể được xác định rõ ràng, và do đó có thể làm giảm xung đột. Đã đến lúc xem xét tốc độ. Ngay cả những tàu chiến nhanh nhất cũng chỉ có thể di chuyển với vận tốc tương đối chậm, 35 hải lý một giờ, làm giảm khả năng tính toán sai lầm của các bên và do đó giúp cho các nhà ngoại giao có thêm thời gian – không chỉ tính bằng giờ mà có thể bằng ngày – để xem xét lại những quyết định của mình. Hơn nữa, các lực lượng hải quân và không quân đơn giản là không chiếm đóng lãnh thổ theo cách mà lục quân sẽ làm. Vì những vùng biển xung quanh khu vực Đông Á mà trong thế kỷ XXI có thể tránh được những xung đột quân sự quy mô lớn, đấy là nói nếu so với thế kỷ XX.

Dĩ nhiên, trong thế kỷ XX, Đông Á đã từng chứng kiến những xung đột quân sự quy mô lớn mà biển cả không thể ngăn chặn: Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905); gần nửa thế kỷ nội chiến tại Trung Quốc theo sau sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh (Mãn Châu); những cuộc chiến tranh xâm lược của Đế quốc Nhật và tiếp theo là Thế chiến II ở Thái Bình Dương ; Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953); những cuộc chiến tranh ở Campuchia , Lào, và hai cuộc chiến tranh ở Việt Nam với sự tham gia của người Pháp và người Mỹ từ những năm 1950 đến những năm 1970. Điểm chung của các xung đột này là chúng đều liên quan một cách hữu cơ tới quá trình hình thành của một nhà nước hay một đế quốc, hay giống như quá trình phi thực dân hoá. Một số xung đột mang tính chất nội bộ, có sự tham gia của các lực lượng quân sự trên bộ, cả thông thường lẫn phi chính thống, hải quân có vai trò cực kỳ hạn chế. Sự kiện là biển cả là đặc trưng địa lý của Đông Á cũng ảnh hưởng rất ít tới những cuộc chiến, thực chất là nội chiến này. (Tôi đưa Triều Tiên vào trong danh sách này: lý do là cuộc xung đột giữa miền nam và miền bắc chủ yếu diễn ra trên đất liền, và liên quan chặt chẽ với việc phân chia bán đảo Triều Tiên thành hai quốc gia, theo sau thời kỳ chiếm đóng lâu dài của Nhật Bản từ 1910 cho tới 1945). Nhưng hiện nay, kỷ nguyên của quá trình cố kết quốc gia trên khắp Đông Á đã lùi sâu vào quá khứ. Các lực lượng quân sự ở Đông Á, thay vì hướng nội với công nghệ lạc hậu, lại đang tập trung hướng ra bên ngoài cùng các lực lượng hải quân và không quân công nghệ cao. Và, như tôi sẽ giải thích, các lực lượng này sẽ ít có khả năng tái diễn những cuộc xung đột hải quân với quy mô tương tự như Chiến tranh Nga-Nhật hay Thế chiến II ở Thái Bình Dương. 

Chiến tranh Nga-Nhật và mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến II chính là hệ quả cuối cùng của các chính sách quân sự hoá mạnh mẽ ở Nhật Bản, mà biển cả không đóng bất cứ vai trò phòng thủ nào. Trên thực tế, biển đóng vai trò quan trọng trong quá trình bành trướng của một quốc đảo vốn có nhu cầu to lớn về nguồn dầu mỏ ở bên ngoài, nhằm thoả mãn lực lượng vũ trang đang phát triển như vũ bão. Nhưng Trung Quốc, hiện nay là cường quốc quân sự đang trỗi dậy ở Thái Bình Dương, lại thể hiện thái độ ít hung hăng hơn hẳn Đế quốc Nhật sau thời kì Minh Trị : thậm chí ngay cả khi quân đội Trung Quốc (đặc biệt là hải quân) đang bành trướng, ở Trung Nguyên người ta cũng không thấy tăm tích của chủ nghĩa phát xít như đã thấy ở Nhật Bản. Nếu so sánh giữa Trung Quốc và Đế quốc Đức trước Thế chiến I như nhiều người vẫn hay làm, thì trong khi nước Đức chủ yếu là một cường quốc trên đất liền, do nằm trên lục địa Châu Âu, thì Trung Quốc do đặc điểm địa lý ở Đông Á , trước hết sẽ là cường quốc hải dương. Chính khu vực địa lý này, tôi xin nhắc lại, sẽ thúc đẩy sự phát triển của các lực lượng hải quân, vốn là xu hướng đáng lo ngại, nhưng vẫn không đáng lo bằng sự ngóc đầu dậy của các lực lượng quân đội ở Châu Âu lục địa vào buổi bình minh của thế kỷ trước.

Sự thực là sức mạnh quân sự đang dịch chuyển về Châu Á, nhưng vẫn có thể tránh được những điều tồi tệ nhất, như đã xảy ra trong thế kỷ XX, nhờ vào cái mà nhà nghiên cứu chính trị tại Đại học Chicago , John J. Mearsheimer , mô tả là “khả năng ngăn chặn của biển cả” . Từ “water”, Mearsheimer giải thích, là cái có thể gây trở ngại cho các cuộc xâm lược, bởi vì trong khi một quốc gia nào đó có khả năng xây dựng lực lượng hải quân và đưa quân đội của mình qua biển, thì quốc gia đó cũng sẽ cảm thấy khó khăn khi tiến hành đổ quân lên vùng bờ biển thù địch, và sau đó là di chuyển vào sâu trong đất liền nhằm khuất phục vĩnh viễn một nhóm dân cư thù địch. 

Ví dụ, eo biển Đài Loan chỉ rộng khoảng 100 dặm, được coi là một trong những eo biển hẹp ở khu vực Tây Thái Bình Dương, nhưng eo Đài Loan vẫn rộng gấp 4 lần eo biển Manche, nơi xuất phát các chiến dịch tấn công của quân Đồng Minh . Trong vòng hơn một thập kỷ nữa Trung Quốc sẽ có khả năng đánh bại Đài Loan, dù Hoa Kỳ có hỗ trợ đến mức nào. Thế nhưng chiếm đóng Đài Loan lại là vấn đề khó hơn rất nhiều, và có thể vì thế sẽ không bao giờ được tính tới. Tình hình sẽ không như thế, nếu Đài Loan không phải là một hòn đảo nằm cách đại lục những 100 dặm. Khoảng cách giữa Nhật Bản và Triều Tiên , giữa Hàn Quốc và Trung Quốc, giữa quần đảo Ryukyu của Nhật và Trung Quốc, giữa đảo Hải Nam của Trung Quốc và Việt Nam..v.v.. cũng tương tự như thế. Không còn bóng dáng của những cuộc chiến tranh hậu thuộc địa và nước Trung Quốc hung hăng hiện nay cũng không phải là Đế quốc Nhật ngày xưa, các đặc trưng địa lý hàng hải tại Đông Á thúc đẩy sự cạnh tranh về hải quân trong khu vực nhưng lại bất lợi cho những kế hoạch đổ bộ lên các khu vực đông dân.

Sự cạnh tranh hải quân đơn thuần như thế sẽ diễn ra như thế nào? Để có câu trả lời, chúng ta phải tìm hiểu sâu hơn về địa lý khu vực Đông Á .

Đông Á có thể được phân chia thành hai khu vực chính: Đông Bắc Á với điểm nhấn là bán đảo Triều Tiên, và Đông Nam Á với biển Đông là trung tâm. Đông Bắc Á xoay quanh số phận của Bắc Triều Tiên, một nhà nước bí ẩn và toàn trị, là sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít dân tộc chủ nghĩa. Trong thế giới mà chủ nghĩa tư bản và truyền thông điện tử giữ thế thượng phong thì tương lai của đất nước như thế thật là mờ mịt. Nếu Bắc Triều Tiên sụp đổ, các lực lượng lục quân của Trung Quốc, Hoa Kỳ và Hàn Quốc sẽ gặp nhau ở nửa phía bắc của bán đảo và bắt đầu các hoạt động can thiệp nhân đạo, thậm chí họ có thể chiếm đất dưới danh nghĩa hỗ trợ lương thực cho những người dân đang đói khát. Các vấn đề liên quan tới hải quân rõ ràng chỉ đứng hàng thứ yếu. Thế nhưng việc thống nhất tối hậu bán đảo này sẽ đưa hải quân lên hàng đầu, với một nước Triều Tiên thống nhất, Trung Quốc và Nhật Bản – cách nhau bởi biển Nhật Bản, Hoàng Hải và Bột Hải – sẽ rơi vào thế cân bằng hết sức mỏng manh. Nói tóm lại, vì vẫn còn Bắc Triều Tiên, di sản Chiến tranh Lạnh của Đông Bắc Á vẫn chưa kết thúc, và vì thế trước khi sức mạnh trên biển nổi lên, sức mạnh của lục quân vẫn sẽ vẫn tiếp tục là đầu đề của báo chí trong khu vực. 

Ngược lại, Đông Nam Á đã chìm sâu vào giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh. Chính điều này làm cho khu vực ẩn chứa nhiều nguy cơ. Việt Nam thống trị bờ phía tây của biển Đông. Từng là biểu tượng ngoại lai đầu bảng trong việc kích hoạt những vụ xáo trộn trong lòng nước Mỹ, Việt Nam – ít nhất cho tới những năm gần đây – là một cỗ máy tăng trưởng tư bản chủ nghĩa đang tìm kiếm các mối quan hệ quân sự gần gũi hơn với Hoa Kỳ, nhằm đối trọng với Trung Quốc. Trung Quốc, được Mao Trạch Đông thống nhất thành triều đại chuyên chế, sau hàng thập kỷ chìm trong hỗn loạn và sau đó, qua quá trình tự do hoá của Đặng Tiểu Bình, đã trở thành nền kinh tế năng động nhất thế giới, hiện đang thúc đẩy sự hiện diện của hải quân bên trong Chuỗi đảo thứ nhất ở vùng biển Tây Thái Bình Dương. Tiếp đó là Indonesia, với dân số Hồi giáo khổng lồ, vốn đã chịu đựng hàng thập kỷ liền dưới các chế độ chuyên chế, cả cánh tả lẫn cánh hữu, trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, hoàn toàn có khả năng trở thành một Ấn Độ thứ hai – một nền dân chủ mạnh mẽ và ổn định có khả năng khẳng định và truyền bá sức mạnh thông qua tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, Singapore và Malaysia tiếp tục phát triển về mặt kinh tế bằng cách củng cố hình mẫu “quốc gia đô thị và quốc gia thương mại” , thông qua việc pha trộn với liều lượng khác nhau giữa dân chủ và chuyên chế. Chính vì thế, bức tranh toàn cảnh của khu vực là một tập hợp các quốc gia, với những vấn đề về tính chính danh hay kiến thiết quốc gia đã trở thành dĩ vãng, sẵn sàng thúc đẩy chủ quyền lãnh thổ nằm bên ngoài đường bờ biển quốc gia mà họ nghĩ là mình đáng được hưởng. Hướng ra bên ngoài mang tính tập thể này lại tập trung ở khu vực đông người nhất của hành tinh: Đông Nam Á, với gần 600 triệu người, 1,3 tỷ người của Trung Quốc giao thoa với 1,5 tỷ người ở tiểu lục địa Ấn Độ. Điểm hội tụ về mặt địa lý của tất cả các quốc gia trong khu vực chính là vùng nước biển Đông.

Biển Đông
Biển Đông đóng vai trò như cuống họng của khu vực Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương –được coi như một “tập hợp các mô liên kết kinh tế”, các tuyến hàng hải quốc tế gặp nhau ở đây. Đây cũng chính là trung tâm vùng đất nằm ngoài rìa lục địa Á-Âu, nơi tàu bè có khả năng đi lại, với eo Malacca, Sunda, Lombok và Makassar. Hơn một nửa hàng hoá toàn cầu được vận chuyển bằng đường biển, cũng như một phần ba tàu bè trên thế giới đi qua những điểm nút này. Lượng dầu mỏ được vận chuyển từ Ấn Độ Dương qua eo biển Malacca đến khu vực Đông Á, qua biển Đông lớn hơn gấp 3 lần lượng dầu mỏ vận chuyển qua kênh đào Suez, và lớn hơn 15 lần lượng dầu mỏ qua kênh đào Panama. Gần 2/3 nguồn cung năng lượng của Hàn Quốc, gần 60% nguồn cung năng lượng của Nhật Bản và Đài Loan, 80% dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc đều phải đi qua biển Đông. Trong khi chỉ có năng lượng là được vận chuyển qua eo biển Ba Tư thì ở biển Đông, ngoài năng lượng còn có hàng hoá thành phẩm và những nguyên liệu khác. 

Bên cạnh vị trí trung tâm, biển Đông còn có trữ lượng dầu mỏ rất lớn, lên tới 7 tỷ thùng, và khoảng 900 triệu m3 khí tự nhiên. Nếu những tính toán của Trung Quốc là chính xác thì biển Đông có trữ lượng lên tới 130 tỷ thùng dầu (nhiều người nghi ngờ con số này), và khi đó biển Đông sẽ có trữ lượng dầu mỏ lớn hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới, ngoại trừ Saudi Arabia. Nhiều nhà quan sát người Trung Quốc đã gọi biển Đông là “vịnh Ba Tư thứ hai”. Nếu biển Đông thực sự có nhiều dầu mỏ đến như vậy, thì Trung Quốc sẽ phần nào giảm được mối lo ngại của mình về “thế lưỡng nan Malacca” (Malacca Dilemma) – tức là phụ thuộc quá nhiều vào eo biển Malacca hẹp và dễ bị tổn thương, trong khi phần lớn nhu cầu năng lượng của Trung Quốc được vận chuyển từ Trung Đông qua eo biển này. Tập đoàn Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đã đầu tư một khoản kinh phí là 20 tỷ USD với niềm tin rằng biển Đông thực sự có trữ lượng dầu mỏ lớn đến như thế. Trung Quốc đang tuyệt vọng trong việc tìm kiếm nguồn năng lượng mới. Dự trữ dầu mỏ của Trung Quốc chỉ chiếm 1,1% tổng lượng dự trữ toàn cầu, trong khi nước này tiêu thụ 10% lượng dầu mỏ được sản xuất trên toàn thế giới và trên 20% tổng lượng năng lượng tiêu thụ toàn cầu . 

Vị trí địa lý và trữ lượng năng lượng không phải là những yếu tố duy nhất biến biển Đông trở thành một khu vực địa chiến lược quan trọng. Bên cạnh đó còn là các tranh chấp lãnh thổ xung quanh vùng biển này. Chỉ có khoảng hơn ba chục trong hơn 200 đảo nhỏ, các bãi đá và rặng san hô tại biển Đông là thường xuyên nổi lên khỏi mặt nước mà thôi. Thế nhưng những mảnh đất nhỏ nhoi này – thường xuyên bị bão tấn công – chỉ có giá trị chủ yếu là do ở các lớp đất đá chồng lấn phức tạp dưới đáy biển bên cạnh những hòn đảo này có thể có dầu mỏ và khí đốt. Brunei khẳng định chủ quyền của mình ở rặng san hô phía nam quần đảo Trường Sa . Malaysia chiếm giữ 3 đảo ở Trường Sa. Philippines tuyên bố chủ quyền trên 8 đảo và một phần lớn diện tích biển Đông . Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc mỗi nước đều khẳng định chủ quyền trên hầu hết diện tích biển Đông, cũng như toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Giữa năm 2010, Trung Quốc đã tạo ra biến động khá lớn khi gọi biển Đông là “lợi ích cốt lõi”. Hoá ra các quan chức Trung Quốc chưa bao giờ thực sự nói như vậy: đấy không phải là vấn đề. Các tấm bản đồ của Trung Quốc luôn luôn vẫn thế. Bắc Kinh tuyên bố rằng họ có cái gọi là “đường lịch sử” (historic line): trung tâm biển Đông nằm gọn trong một vòng tròn lớn – “đường lưỡi bò”, người ta gọi vòng tròn đó như thế – bao quanh các nhóm đảo ở biển Đông, từ đảo Hải Nam của Trung Quốc xuống phía nam 1.200 dặm, tới gần Singapore và Malaysia . Kết quả là tất cả các nước ven biển, không ít thì nhiều, đều bày binh bố trận nhằm chống lại Trung Quốc, và dựa vào Hoa Kỳ với các hỗ trợ về ngoại giao và quân sự. Ví dụ, Việt Nam và Malaysia đang cố gắng phân định vùng thềm lục địa và nguồn tài nguyên dưới lòng biển trong khu vực phía nam biển Đông, nằm giữa bờ biển Đông Nam Á và phần đảo Borneo thuộc Malaysia: Trung Quốc đã có những phản ứng dữ dội về mặt ngoại giao. Những tuyên bố chủ quyền xung đột lẫn nhau có khả năng trở nên sâu sắc hơn, một khi tiêu thụ năng lượng tại các quốc gia đang phát triển ở Châu Á tăng gấp đôi vào năm 2030 – Trung Quốc chiếm một nửa tăng trưởng đó . 

“Nghịch lý ở đây là, nếu toàn cầu hoá giữ thế thượng phong trong thời hậu hiện đại,” chuyên gia hải quân người Anh, Geoffrey Till , viết, thì “tất cả những thứ ủng hộ” toàn cầu hoá, ví dụ như các tuyến đường thương mại hay các mỏ dầu, sẽ trở thành mục tiêu cạnh tranh dữ dội. Khi nói tới các tuyến đường thương mại, 90% tổng lượng hàng hoá được vận chuyển từ châu lục này sang châu lục khác là bằng đường biển. Nhận thức về không gian hàng hải cao như thế là sản phẩm của toàn cầu hoá, xuất hiện tại thời điểm khi các quốc gia tương đối trẻ và độc lập ở Đông Nam Á – mà gần đây đã có khả năng thể hiện cơ bắp của mình trên biển – đưa ra các tuyên bố chủ quyền xung đột với nhau. Các tuyên bố như vậy hiếm khi xuất hiện trong thời kỳ Đế quốc Anh còn trị vì trong vùng này, bởi sức mạnh và tầm ảnh hưởng của vương triều trên toàn cầu, cũng như nước này luôn luôn khẳng định quyền tự do thương mại và tự do hàng hải. Việc thể hiện cơ bắp trên biển thường xảy ra dưới dạng những vụ va chạm “theo chu kỳ” giữa tàu chiến của các nước khác nhau, tạo ra nguy cơ xung đột võ trang. 

Quan chức cấp cao của một quốc gia ven biển Đông đặc biệt thẳng thắn trong suốt cuộc trò chuyện mà tôi đã có dịp tham gia vào năm 2011, nói: “Người Trung Quốc chẳng bao giờ biện hộ cho những tuyên bố của mình. Họ thực sự có não trạng nước lớn, và họ cũng làm mọi cách nhằm ngăn cản việc đưa các tranh chấp này ra toà. Trung Quốc,” quan chức này tiếp, “phủ nhận quyền của chúng tôi ngay trên thềm lục địa của mình. Nhưng chúng tôi sẽ không bị đối xử như Tân Cương hay Tây Tạng. ” Vị quan chức này nói Trung Quốc hành xử cứng rắn với cả Philippines và Việt Nam, bởi vì trong khi Việt Nam luôn trong tư thế đối đầu căng thẳng với Trung Quốc về lịch sử lẫn địa lý, thì Philippines chỉ là một quốc gia yếu và dễ dàng bị bắt nạt. “Có quá nhiều bên khẳng định chủ quyền ở biển Đông. Sự phức tạp của vấn đề khiến cho việc tìm ra giải pháp tổng thể trở nên khó khăn, vì thế Trung Quốc chỉ cần đơn giản là chờ đợi cho tới khi họ mạnh lên. Về mặt kinh tế, hầu như tất cả các quốc gia này đều sẽ bị Trung Quốc áp đảo,” vị quan chức này nói, trừ khi chính nền kinh tế Trung Quốc gặp trục trặc. Một khi căn cứ tàu ngầm trong lòng núi trên đảo Hải Nam được xây dựng xong, “Trung Quốc sẽ càng có khả năng làm những gì họ muốn.” Trong khi đó, ngày càng nhiều tàu chiến Hoa Kỳ đến thăm khu vực, “vì thế tranh chấp đang được quốc tế hoá”. Bởi vì không có giải nào nào về mặt chính trị hay luật pháp, “chúng tôi ủng hộ việc giữ nguyên hiện trạng.” 

Tôi hỏi: “Nếu như việc đó (giữ nguyên hiện trạng – ND) thất bại, thì kế hoạch B trong việc đối phó với Trung Quốc là gì?” 

“Kế hoạch B sẽ là hải quân Hoa Kỳ – Bộ tư lệnh Thái Bình Dương. Nhưng chúng tôi sẽ công khai là giữ vị trí trung lập trong bất cứ xung đột Mỹ-Trung nào.” Để chắc chắn rằng tôi hiểu đúng thông điệp, vị quan chức đó nói: “Sự hiện diện của hải quân Hoa Kỳ là cần thiết nhằm đối phó với Trung Quốc, nhưng chúng tôi sẽ không nói như thế.” Chỉ cần một nhóm tàu sân bay của Hoa Kỳ rút ra khỏi khu vực Tây Thái Bình Dương, thì cuộc chơi sẽ thay đổi.

Trong giai đoạn quá độ, biển Đông đã trở thành trại lính, ngay cả khi quá trình tranh giành các bãi cạn ở đây hầu như đã kết thúc. Trung Quốc đã chiếm 12 đảo lớn nhỏ, Đài Loan một, Việt Nam chiếm 21, Malaysia 5 và Philippines 9. Nói cách khác, thực tế đã được thiết lập. Có lẽ sẽ có những thoả thuận về việc chia sẻ những khu vực khai thác dầu mỏ hay khí đốt. Tuy nhiên, điều vẫn chưa rõ ràng chính là việc các quốc gia có quan hệ ngoại giao căng thẳng, đồng thời cũng tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ như Việt Nam hay Trung Quốc sẽ đồng ý cụ thể những điều khoản nào. 

Lấy quần đảo Trường Sa làm ví dụ, với trữ lượng dầu mỏ và khí đốt lớn, cùng với việc Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ quần đảo, trong khi Malaysia, Brunei và Philippines chỉ tuyên bố một phần. Trung Quốc đã cho xây dựng sân bay trực thăng bằng bê tông cũng như các cấu trúc quân sự ở bảy bãi san hô và bãi cạn. Trên Bãi Vành Khăn (Mischief Reef), – Trung Quốc đã chiếm khu vực này ngay trước mũi hải quân Philippines trong thập niên 1990 – nước này đã cho xây dựng một toà nhà ba tầng và năm cấu trúc hình bát giác, tất cả đều dành cho mục đích quân sự. Tại đảo Gạc Ma,(Johnson Reef) Trung Quốc xây dựng công trình có trang bị súng máy hoả lực mạnh. Đài Loan chiếm giữ đảo Ba Bình (Itu Aba), họ đã xây dựng trên hòn đảo này hàng chục công trình quân sự, được hàng trăm lính và hai chục khẩu súng bảo vệ bờ biển canh giữ. Việt Nam chiếm giữ 21 đảo. Nước này đã xây dựng đường băng, bến tàu, trại lính, khu vực dự trữ và các điểm hoả lực. Malaysia chiếm được 5 hòn đảo, Philippines có 9 hòn đảo, và cũng do các đơn vị hải quân chấn giữ. Những người nói rằng toàn cầu hoá sẽ làm cho các đường biên giới lãnh thổ hay xung đột nhằm tranh giành lãnh thổ không còn ý nghĩa, thì hãy lưu ý tới biển Đông.

Quan điểm của Trung Quốc đối với biển Đông tương tự như quan điểm của Hoa Kỳ đối với vùng biển Ca-ri-bê vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Hoa Kỳ công nhận sự hiện diện cũng như các tuyên bố lãnh thổ của các cường quốc châu Âu tại Ca-ri-bê, nhưng lại tìm cách thống trị khu vực. Cuộc chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha năm 1898, diễn ra chủ yếu tại Cuba, và việc xây dựng kênh đào Panama từ 1904 tới 1914 đã khởi đầu cho sự trỗi dậy của Hoa Kỳ như một cường quốc toàn cầu. Sự phát triển đó, không phải là ngẫu nhiên, lại xảy ra sau khi nước Mỹ đóng cửa các đường biên giới của mình, với những trận đánh lớn cuối cùng của cuộc chiến tranh với người da đỏ diễn ra vào năm 1890. Hơn nữa, chính khả năng làm chủ vùng Đại Ca-ri-bê đã giúp cho Hoa Kỳ có thể kiểm soát được Tây Bán Cầu, đến lượt nó, lại tạo điều kiện cho Hoa Kỳ tác động tới cán cân quyền lưc ở Đông Bán Cầu. Có lẽ cũng tương tự như Trung Quốc trong thế kỷ XXI. 

Trung Quốc, với 1.500 tên lửa đạn đạo tầm ngắn nhắm vào Đài Loan và 270 chuyến bay thương mại một tuần tới Đài Loan, sẽ có khả năng hoàn thành được mục tiêu của mình xung quanh vấn đề chủ quyền của Đài Loan mà không cần phải tiến hành một cuộc xâm lược bằng hải quân. Tương tự như việc Hoa Kỳ đóng cửa các đường biên giới của mình, việc Trung Quốc hoàn thành chiếm đóng Đài Loan trong những năm tới sẽ tạo điều kiện cho các nhà hoạch định chiến lược hải quân Trung Quốc tập trung năng lực của mình vào biển Đông – vùng biển bên cạnh Ấn Độ Dương nơi mà Trung Quốc cũng mong muốn đưa hải quân tới để có thể bảo vệ các nguồn cung năng lượng từ Trung Đông. Nếu Trung Quốc có thể thay thế hải quân Hoa Kỳ để trở thành sức mạnh áp đảo ở biển Đông – hay thậm chí là đạt được năng lực tương đương với hải quân Hoa Kỳ – thì điều này có thể mở ra cho Trung Quốc những khả năng địa chiến lược tương tự như những gì mà người Mỹ đã đạt được khi giành được ngôi bá chủ ở vùng biển Ca-ri-bê.

Biểu tình phản đối Trung Quốc ở Philippines


Tuy nhiên, biển Đông không phải là Ca-ri-bê. Trên thực tế, biển Đông quan trọng hơn nhiều. Biển Ca-ri-bê nằm cách xa các tuyến đường hàng hải chính, trong khi biển Đông lại nằm ở trung tâm của các tuyến đường đó.

Vì biển Đông là nơi các tuyến đường hàng hải xuất phát từ vùng sừng châu Phi và biển Nhật Bản gặp nhau, quốc gia nào thống trị được biển Đông sẽ tiến một bước khá dài tới khả năng thống trị vùng đất nằm bên cạnh những tuyến đưởng này ở Đông Bán Cầu. Tuy nhiên, khả năng cao hơn sẽ là ngược lại: không một quốc gia nào có khả năng thống trị biển Đông. Một lý do khác khiến cho biển Đông trở nên quan trọng chính là việc vùng biển này đang trở thành khu vực tranh giành khốc liệt nhất trên thế giới. 

Hải quân Hoa Kỳ hiện tại đang thống trị biển Đông. Nhưng tình hình sẽ thay thổi. Quy mô của hải quân Hoa Kỳ đã giảm từ gần 600 tàu dưới thời Reagan, xuống còn khoảng 350 tàu dưới thời Clinton và hiện nay còn chưa đến 300 tàu. Trong những năm 2020, số tầu chiến thậm chí còn giảm đi hơn nữa, vì các tàu chiến hay tàu ngầm cũ kỹ sẽ bị loại, chi phí gia tăng và cắt giảm ngân sách trong tương lai, sẽ dẫn đến các khoản thâm hụt tài chính khổng lồ. Trong khi đó, hải quân Trung Quốc, lực lượng hải quân hùng mạnh thứ hai trên thế giới, lại đang phát triển nhanh chóng. Thay vì mua sắm đủ các loại tàu chiến, Trung Quốc đang phát triển các khả năng chuyên biệt của các phương tiện chiến tranh dưới mặt biển và công nghệ tên lửa đạn đạo (tên lửa DF-21) , nhằm tấn công các mục tiêu di động trên biển, ví dụ như các tàu sân bay của Hoa Kỳ. Nếu Trung Quốc bành trướng hạm đội tàu ngầm của mình lên tới 78 chiếc vào năm 2020 như kế hoạch, thì, về số lượng , binh chủng tàu ngầm của Trung Quốc sẽ tương đương với toàn bộ hạm đội tàu ngầm của Hoa Kỳ. Tất cả hạm đội tàu ngầm của Hoa Kỳ đều chạy bằng năng lượng hạt nhân để có thể đi nửa vòng trái đất nhằm tiếp cận Đông Á trước tiên, ngay cả khi các tàu ngầm chạy bằng động cơ diesel của Trung Quốc chạy rất êm và vì vậy có thể ẩn nấp tốt hơn tại vùng biển ven bờ vốn nhỏ hẹp ở Đông Á. Có lúc, dường như Trung Quốc có thể có khả năng ngăn chặn khả năng tiếp cận không hạn chế của Hoa Kỳ tại một số khu vực trên biển Đông. 

Vì vậy, khi hải quân Trung Quốc mạnh lên – kinh tế nước này cho phép làm như thế – và khi tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông – được thể hiện qua những tấm bản đồ của nước này – mâu thuẫn với tuyên bố của các quốc gia ven biển khác, thì các quốc gia này sẽ buộc phải tự mình phát triển năng lực hải quân và đối trọng với Trung Quốc bằng cách ngày càng dựa nhiều hơn vào hải quân Hoa Kỳ: hải quân với sức mạnh dường như đã đạt đỉnh – theo nghĩa tương đối – trong khi còn phải đưa khá nhiều lực lượng tới khu vực Trung Đông . Hệ thống quốc tế đa cực đã trở thành đặc điểm của nền ngoại giao và kinh tế, nhưng biển Đông cho chúng ta thấy đa cực về mặt quân sự là như thế nào. Nước Đức từng là tiền tuyến trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, biển Đông có thể trở thành tiền tuyến trong những thập kỷ tới.

Chẳng có gì lãng mạn về tiến tuyến này hết. Trong khi Thế chiến II là một cuộc đấu tranh mang tính đạo đức nhằm chống lại chủ nghĩa phát xít, Chiến tranh Lạnh là cuộc đấu tranh mang tính đạo đức nhằm chống lại chủ nghĩa cộng sản, hậu Chiến tranh Lạnh là cuộc đấu tranh mang tính đạo đức nhằm chống lại nạn diệt chủng ở Balkans, ở châu Phi và Trung Đông, cũng như là cuộc đấu tranh mang tính đạo đức nhằm chống lại chủ nghĩa khủng bố và ủng hộ dân chủ, khu vực biển Đông cho chúng ta thấy thế giới trong thế kỷ XXI là thế giới không có các cuộc đấu tranh mang tính đạo đức, khi mà tất cả những người tham gia đều sùng bái những người theo chủ nghĩa nhân văn hay giới trí thức. Ngoài chính quyền cộng sản chuyên chế Bắc Triều Tiên – di sản của Chiến tranh Lạnh – dường như toàn bộ khu vực Đông Á hiện nay không liên quan gì tới chủ nghĩa nhân văn. Vì thế mà không còn đối thủ mang tính triết học nào hết. Sự kiện là khu vực Đông Á chỉ là thương mại và kinh doanh mà thôi. Thậm chí Trung Quốc, dù giới bất đồng chính kiến ở đây đang rên xiết, cũng không phải là đối tượng của cuộc đấu tranh mang tính đạo đức.

Chính quyền Trung Quốc là chế độ chuyên chế không quá khắt khe, với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và tư tưởng quản trị không đáng để nói. Hơn nữa, trong những năm sắp tới, xã hội Trung Quốc nhiều khả năng sẽ trở nên cởi mở hơn chứ không đóng cửa như trước. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc là những kỹ sư và những nhà lãnh đạo khu vực có năng lực, dành hết sức mình cho việc cải thiện và cân đối kinh tế, họ phải về vườn khi đến tuổi. Họ không phải là những nhà lãnh đạo suy đồi và cứng đầu như ở các nước A-rập vừa bị lật đổ. Không phải là phát xít hay quân phiệt, Trung Quốc, cũng như các quốc gia khác ở Đông Á, đang ngày càng được định hình bởi một thứ chủ nghĩa dân tộc đã lỗi thời, nhưng bền bỉ và thậm chí là đang ngóc đầu dậy: không nghi ngờ gì cả, đó là một tư tưởng, nhưng không phải là tư tưởng mà từ giữa thế kỷ XIX đã có sức cuốn hút đới với những người theo chủ nghĩa nhân văn tự do.

Trong những năm 1800, chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu là cộng đồng đạo đức nhằm chống lại chính quyền của đế chế. Hiện nay, cộng đồng đạo đức mà các nhà tri thức hay giới ký giả mong mỏi lại có tính phổ quát, bao gồm tất cả loài người, vì thế chủ nghĩa dân tộc, thứ chủ nghĩa mà tình nhân loại bị giới hạn trong một nhóm nhất định nào đó, bị coi hầu như là phản động. (Điều này một phần giải thích vì sao giới truyền thông trong suốt những thập kỷ vừa qua quan tâm tới các tổ chức quốc tế, dù đấy là Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Âu, hay NATO – vì những tổ chức này đưa ra con đường vượt lên trên chủ quyền quốc gia). Nhưng, mặc dù đã có những tổ chức liên quốc gia như ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), chủ nghĩa dân tộc truyền thống vẫn là động cơ chính của nền chính trị ở châu Á, và vẫn sẽ tiếp tục làm như thế trong tương lai. Và chủ nghĩa dân tộc loại này đã dẫn tới quá trình hiện đại hoá quân đội – đặc biệt là không quân và hải quân – nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia, cùng với chủ quyền là những yêu sách liên quan tới các nguồn tài nguyên trong không gian hàng hải đang bị tranh chấp.

Trong vùng đất mới mẻ và khô khan này của thế kỷ XXI, chẳng có bất cứ câu hỏi mang tính triết học nào để mà nghĩ hết. Tất cả chỉ xoanh quanh vấn đề quyền lực; mà chủ yếu là cân bằng quyền lực. Trong khi ngôn từ được sử dụng trong các hội nghị thượng đỉnh tại châu Á luôn luôn mềm mại và uyển chuyển, thì việc hàng loạt tàu chiến được triển khai xung quanh các vùng biển đang tranh chấp lại thể hiện sự cứng rắn và không khoan nhượng. Sử dụng lực lượng quân sự trên đất liền, trong đó có chiếm đóng các khu vực dân cư, thường xuyên dẫn tới các vụ việc vi phạm quyền con người và vì thế chính sách đối ngoại trở thành một nhánh trong các công trình nghiên cứu về nạn diệt chủng (Holocaust). Nhưng, sử dụng sức mạnh trên biển thường chỉ liên quan tới các yếu tố thuần tuý quân sự. Nếu không có những vụ bắn phá các vùng bờ biển, thì số thương vong chủ yếu là lính hải quân, và vì thế sẽ không có ai là nạn nhân theo đúng nghĩa của từ này. Vào đầu thế kỷ XXI, biển Đông sẽ tiếp tục là trọng tâm địa chính trị, tương tự như vùng Trung Âu thế kỷ XIX. Nhưng khác với Trung Âu, biển Đông sẽ không mang lại bất cứ nguồn cảm hứng nào cho giới học giả hay nhà báo.

Việc tách địa chính trị ra khỏi các vấn đề về nhân quyền, vốn giao thoa với nhau trong bối cảnh châu Âu thế kỷ XIX, cộng với mức độ trừu tượng xung quanh lĩnh vực biển cả, sẽ biến biển Đông trở thành sân chơi cho giới phân tích chính trị và quốc phòng hơn là giới tri thức hay truyền thông. Chủ nghĩa hiện thực, thường được coi là phi luân lý vì chú tâm vào lợi ích hơn là vào những giá trị nhân văn trong cái thế giới đã bị suy đồi này, sẽ là chủ thuyết chiếm thế thượng phong. Đó là lý do vì sao biển Đông sẽ trở thành biểu tượng cho thế tiến thoái lưỡng nan của chủ nghĩa nhân văn.

Ngoại lệ lớn nhất trong những luận cứ này là môi trường. Thảm hoạ sóng thần ở Ấn Độ Dương vào tháng 12 năm 2004 xảy ra tại khu vục giáp biển Đông và làm nhiều người thiệt mạng hơn cả cuộc chiến tranh ở Iraq. Thậm chí nếu không có hiện tượng nóng ấm toàn cầu, thì những thay đổi thường thấy của hoạt động khí hậu và địa chất tại những khu vực dễ bị tổn thương về mặt môi trường, kết hợp với quá trình gia tăng dân số liên tục ở những khu vực ven biển, cũng chắc chắn sẽ dẫn tới thảm hoạ nhân đạo trong khu vực biển Đông trong những thập kỷ tới. Các lực lượng hải quân sẽ phải đối phó. Và cũng giống như các biện pháp có phần phô trương khi tham gia cứu trợ tại Ấn Độ Dương, hải quân Hoa Kỳ, dẫn đầu bởi một nhóm tàu sân bay, đã thể hiện được quyền lực mềm của quốc gia như là một yếu tố cộng thêm vào quyền lực cứng. Cụ thể là, công tác hỗ trợ nhân đạo cho Indonesia góp phần khôi phục lại mối quan hệ giữa quân đội Hoa Kỳ và quân đội Indonesia, vỗn đã bị gián đoạn trong suốt những năm qua. Các bản tin thời sự đề cập tới thảm hoạ sóng thần tại Ấn Độ Dương cho chúng ta thấy cách thức mà khu vực biển Đông có thể xuất hiện trước thế giới thông qua lăng kính truyền thông đã bị bóp méo. Các chuyên gia sẽ thường xuyên theo dõi những chuyển động hải quân tại vùng biển này, trong khi chỉ khi xảy ra những thảm hoạ tự nhiên thì giới truyền thông mới sử dụng các khung giờ vàng mà thôi. Thậm chí ngay cả khi xảy ra thảm hoạ, nếu so sánh với châu Âu thế kỷ XX, thì góc độ về quyền con người sẽ không gây được nhiều chú ý. Lý do là không tồn tại bất cứ thủ phạm nào ở đây cả, mặc dù có rất nhiều nạn nhân, chỉ là hành động của Mẹ Thiên Nhiên mà thôi. Nếu không có thủ phạm, sự lựa chọn về mặt đạo đức giữa tốt và xấu sẽ không tồn tại, nghĩa là về mặt triết học, bi kịch là tương đối nhỏ.

Bi kịch về mặt đạo đức sẽ xảy ra dưới hình thức của chính trị dựa trên cơ sở sức mạnh đơn thuần, khiến cho giới trí thức hay nhà báo cứng họng. Hãy tưởng tượng Đối thoại Melia trong Cuốn sách thứ 5 của Thucydides , nhưng không có việc giết dân Melia và cũng không có việc bắt trẻ con hay phụ nữ làm nô lệ – tức là cái làm nên bi kịch. Đối thoại Melia được viết lại cho thế kỷ XXI: người Athens, sức mạnh áp đảo của Hy Lạp, nói với người Melia rằng trong khi Athens là một thành bang hùng mạnh, thì thành Melos lại quá yếu, và do đó phải khuất phục. Như Thucydides viết: “Kẻ mạnh sẽ làm những việc họ muốn, còn kẻ yếu sẽ phải chịu đau khổ”. Vì vậy, người Melia đã đầu hàng mà chống cự. Đây sẽ là chiến lược không tuyên bố của Trung Quốc, và những quốc gia yếu hơn tại Đông Nam Á sẽ liên kết với Hoa Kỳ để tránh số phận của người Melia: nói cách khác, chính trị dựa trên cơ sở sức mạnh sẽ chiếm ưu thế, chủ yếu liên quan tới tính toán lợi ích, mà không dùng tới chiến tranh.

Tương tự như Chiến tranh Lạnh, biển Đông báo trước một hình thức xung đột khác hẳn những hiện tượng mà chúng ta đã quen từ Thế chiến I cho tới chiến tranh ở Iraq hay Syria. Kể từ đầu thế kỷ XX, chúng ta đã bị tổn thương và đau khổ bởi, một mặt là những cuộc xung đột có đông người tham gia và có tính quy ước trên đất liền, mặt khác là những cuộc chiến tranh nhỏ, bất quy tắc và bẩn thỉu. Bởi vì cả hai hình thức xung đột nói trên đều làm rất nhiều thường dân bị thương vong, chiến tranh, như tôi đã trình bày, là chủ đề thảo luận không chỉ của giới tướng lĩnh, mà còn của những người theo chủ nghĩa nhân văn. Nhưng, trong tương lai, chúng ta có thể sẽ chỉ có thể thấy xung đột với hình thức tinh khiết hơn (ít nhất lại tại Đông Á), chỉ trong lĩnh vực hải quân, chẳng có mấy thông tin cho giới tri thức suy ngẫm: tương tự như cuộc đấu tranh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, nhưng không có chiến tranh trên bộ. Đây là một kịch bản lạc quan. Vì xung đột là bản chất của con người, không thể nào loại bỏ được. Chủ đề trong tác phẩm Các cuộc đàm đạo về Livy (Discourses on Levy) của Machiavelli nói rằng xung đột, nếu được kiểm soát một cách hữu hiệu, là thứ dường như sẽ đưa lòai người tiến lên chứ không phải là ở mãi trong tình trạng ổn định cứng nhắc. Một vùng biển đầy tàu chiến không hề mâu thuẫn với một kỷ nguyên tiến bộ vĩ đại ở châu Á.
Thế nhưng có thể kiểm soát một cách hữu hiệu xung đột ở biển Đông hay không? Nói cho cùng, cho đến lúc này luận cứ của tôi giả định rằng các cuộc chiến tranh lớn sẽ không xảy, thay vào đó các quốc gia sẽ tranh giành nhau từng vị trí một trên biển cả, cùng với đó là những tuyên bố chủ quyền trái ngược nhau về các nguồn tài nguyên trên biển, thậm chí các quốc gia cũng có thể đồng ý thông qua đàm phán để chia sẻ một cách công bằng các nguồn tài nguyên. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc, bất chấp xu hướng hiện tại, xâm lược Đài Loan? Điều gì sẽ xảy ra nếu Việt Nam và Trung Quốc – hai quốc gia từng đối đầu nhau từ rất lâu rồi – xảy ra chiến tranh như năm 1979, lần này là với những thứ vũ khí hiện đại hơn? Vì không chỉ có một mình Trung Quốc hiện đại hoá quân đội của mình, các nước ở Đông Nam Á nói chung cũng làm như vậy. Ngân sách quốc phòng của các nước này đã tăng thêm một phần ba trong vòng một thập kỷ, trong khi ngân sách quốc phòng của các nước châu Âu lại giảm. Tính từ năm 2000, nhập khẩu vũ khí của Indonesia, Singapore, và Malaysia gia tăng lần lượt là 84%, 146% và 722%. Chi tiêu này chủ yếu là cho các hệ thống vũ khí trên không và trên biển như tàu chiến, tàu ngầm hay các hệ thống tên lửa hiện đại. Việt Nam gần đây đã bỏ ra 2 tỷ USD để mua 6 tàu ngầm lớp Kilo tiên tiến của Nga và 1 tỷ USD để mua máy bay chiến đấu cũng của Nga. Malaysia xây dựng xong căn cứ tàu ngầm trên đảo Borneo, thậm chí Trung Quốc cũng đang phát triển một căn cứ ngầm có sức chứa lên tới 20 tàu ngầm hạt nhân trên đảo Hải Nam . Trong khi Hoa Kỳ đang bị phân tâm bởi các cuộc chiến trên bộ ở khu vực Đại Trung Đông, sức mạnh quân sự đang dần dịch chuyển từ châu Âu sang châu Á, nơi mà các tổ hợp công nghiệp liên kết giữa dân sự-quốc phòng mang tính chất hậu công nghiệp đang được xây dựng, tập trung vào sức mạnh hải quân.

Địa chính trị ở biển Đông khá đơn giản, ít nhất là ở một khía cạnh. Thế giới hiện nay không phải là thế giới của các liên minh đế quốc phức tạp, đa cực và luôn dịch chuyển như châu Âu thời trước Thế chiến I. Chỉ có một cường quốc, gọi là bản địa, có khả năng đe doạ ở vùng biển này: Trung Quốc, với những tấm bản đồ của mình, thể hiện tham vọng kiểm soát toàn bộ biển Đông như Hoa Kỳ đã làm với biển Ca-ri-bê trước đây. Nhưng, nỗi ám ảnh về lãnh thổ của Trung Quốc không phải là vô lý nếu xét tới vị trí địa lý và lịch sử của quốc gia này trong thế kỷ XIX và thế kỷ XX.

Toàn bộ vùng biên giới phía bắc của biển Đông được hình thành bởi lục địa Trung Quốc. Thực sự thì vùng bờ biển phía đông của Trung Quốc, từ biên giới Việt Nam ở phía tây cho tới eo biển Đài Loan ở phía đông, là một trong những trung tâm kinh tế và dân cư quan trọng nhất của Trung Quốc, trong đó có tỉnh Quảng Đông và đại đô thị Quảng Châu , tiếp giáp với Hồng Kông. Tiếp đó là đảo Hải Nam , đặc khu kinh tế lớn nhất Trung Quốc, và cũng nằm trong khu vực Vịnh Bắc Bộ giàu tài nguyên thiên nhiên, có khả năng ngăn chặn Việt Nam tiếp cận với khu vực biển Đông nằm ngoài Vịnh Bắc Bộ.

Một tấm bản đồ của Trung Quốc cho thấy toàn bộ một nửa vùng bờ biển của nước này là hướng về phía biển Đông, ở phía nam và một nửa còn lại hướng về phía biển Bột Hải, Hoàng Hải và biển Hoa Đông ở phía đông. Vì vậy, Trung Quốc luôn nhìn về vùng biển ở phía nam, được hình thành theo chiều kim đồng hồ, bởi Đài Loan, Philippines, đảo Borneo phân chia giữa Malaysia và Indonesia, bán đảo Malay phân chia giữa Malaysia và Thái Lan, và vùng bờ biển dài, trông giống như con rắn của Việt Nam – tất cả đều là những quốc gia yếu hơn Trung Quốc. Tương tự như ở Ca-ri-bê, các quốc đảo nhỏ bị Hoa Kỳ bao quanh, biển Đông cũng sẽ trở thành một đấu trường cho quá trình triển khai sức mạnh của một quốc gia khổng lồ, bao bọc một phần rất lớn khu vực này. Biển Đông cung cấp không gian lý tưởng cho quá trình bành trướng của Trung Quốc, vì hầu hết lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc là từ Trung Đông , sẽ phải đi vào biển Đông, qua các eo biển của Indonesia. Là cầu nối giữa Ấn Độ Dương và vùng biển Tây Thái Bình Dương, biển Đông đóng vai trò là cửa ngõ giúp Trung Quốc tiếp cận với toàn bộ vành đai Hồi giáo, từ sa mạc Sahara cho tới quần đảo Indonesia; tương tự như Ca-ri-bê trong việc giúp cho vùng bờ đông Hoa Kỳ tiếp cận với Thái Bình Dương, qua việc xây dựng kênh đào Panama, kênh đào này cũng chẳng khác gì eo biển Malacca. Cướp biển và khủng bố đang đe doạ cửa ngõ này, việc này có liên hệ tới những quốc gia yếu kém như Philippines hay Indonesia với một dân số khổng lồ theo đạo Hồi. Địa lý quyết định sự hiện diện mạnh mẽ của hải quân Trung Quốc ở biển Đông, và đó là điều dể hiểu. Kiểm soát hữu hiệu biển Đông sẽ giúp Trung Quốc dễ dàng hơn trên con đường trở thành cường quốc hải quân trên hai đại dương: Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Trung Quốc phải tập trung vào vấn đề Đài Loan và bán đảo Triều Tiên chỉ là do những đe doạ an ninh mang tính nhất thời, nhưng biển Đông lại có vai trò quan trọng, là chìa khoá cho tương lai địa chiến lược của Trung Quốc. 

Tuy nhiên, có những lý do sâu xa hơn thúc đẩy Trung Quốc tiến ra biển Đông cũng như hướng ra chuỗi đảo thứ nhất ở Thái Bình Dương: sự lạc hậu của Trung Quốc so với các nước phương tây trong lịch sử gần đây, sau hàng ngàn năm nước này được coi như là một cường quốc và một nền văn minh tầm cỡ thế giới. Không nên bỏ qua những sự kiện đã diễn ra Trung Quốc với Trung Quốc trong suốt 150 năm qua. Nếu bạn không có hiểu biết thật sự sâu sắc về kinh nghiệm lịch sử này của Trung Quốc, bạn sẽ không thể hiểu được một cách toàn diện những điều đang thúc đẩy Trung Quốc hành động ở biển Đông.

Biểu tình phản đối Trung Quốc
Trong thế kỷ XIX, khi triều đại nhà Thanh trở thành “con bệnh” của Đông Á, Trung Quốc đã để mất hầu hết lãnh thổ của mình – các nước phên dậu ở phía nam bao gồm Nepal hay Miến Điện về tay Đế quốc Anh ; Đông Dương vào tay Pháp; Đài Loan, Triều Tiên và quần đảo Sakhalin vào tay Nhật Bản ; Mãn Châu, Amuria và Ussuria vào tay Nga. Thế kỷ XX thì Đế quốc Nhật xâm lược bán đảo Sơn Đông và vùng Mãn Châu , nằm ngay ở trung tâm của Trung Quốc. Điều này, cộng thêm với các hiệp ước ô nhục mà Trung Quốc ký với nước ngoài, cho phép các quốc gia phương Tây kiểm soát nhiều thành phố khác nhau ở Trung Quốc – hay còn được gọi là các Hiệp ước Cảng (Treaty Ports) . Năm 1938, một nhà sử học ở đại học Yale , Jonathan D. Spence , đã viết trong tác phẩm The Search for Modern China, rằng chính những biến cố như trên, cùng cuộc nội chiến xảy ra sau đó giữa Đảng Cộng sản và Quốc Dân đảng theo chủ nghĩa quốc gia, khiến cho “lãnh thổ Trung Quốc, vốn là một đế quốc thống nhất dưới triều đại nhà Thanh đã bị chia ra thành 10 mảnh khác nhau”. Có một nỗi sợ âm ỉ rằng “Trung Quốc sẽ bị phân liệt, và sẽ không còn tồn tại như một quốc gia, và lịch sử hơn 4.000 năm rốt cục cũng sẽ chấm dứt.” Một nỗi sợ hãi đi kèm là Trung Quốc sẽ quay trở lại với tình trạng của thời kỳ Chiến quốc, thế kỷ III TCN; hay là thời kỳ mà “chính quyền và các liên minh thay đổi liên tục, trở thành đặc điểm điển hình trong lịch sử Trung Quốc” từ thế kỷ III đến thế kỷ VI, và lặp lại một lần nữa từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. Trung Quốc, đã vượt qua những cơn ác mộng đó, đã đạt được đỉnh cao về sức mạnh trên bộ và ổn định lãnh thổ chưa từng có, kể từ triều đại nhà Minh thế kỷ XVI và triều đại nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII, hiện tại đang cố gắng vươn ra biển để bảo vệ các tuyến đường hàng hải của mình tới Trung Đông và đảm bảo quyền lợi kinh tế của một dân tộc đông người. Sự thôi thúc phải mở rộng không gian chiến lược của Trung Quốc là tuyên bố nói rằng nước này sẽ không bao giờ để cho nước ngoài chiếm thế thượng phong, như họ đã phải chịu đựng suốt hai thế kỷ trước.

Đề tìm cách khống chế sự trỗi dậy của Trung Quốc tại Đông Nam Á, chúng ta phải xem xét cuộc chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam đôi lúc vẫn được người ta so sánh với cuộc phiêu lưu thất bại tới Sicily của người Athens cuối thế kỷ V TCN, được mô tả trong cuốn sách thứ 7 của Thycidides Cuộc chiến tranh Peloponnesia (Peloponnesia War) . Mười bốn năm là thời gian kể từ khi người Athens xâm nhập Silicy lần đầu tiên cho tới thảm hoạ cuối cùng của họ tại đó: tương tự như khoảng thời gian kể từ khi chính quyền John F. Kennedy đưa quân vào Việt Nam cho tới tuyên bố rút quân của Tổng thống Gerald Ford. Hoa Kỳ đã bị đồng minh ở Việt Nam của mình lôi kéo vào cuộc chiến nằm cách nửa vòng trái đất, vì đồng minh bị lực lượng cộng sản tấn công, hệt như Athens bị lôi vào các cuộc chiến giữa đồng minh của mình và đối thủ của họ ở Sicily, vốn trung thành với Syracuse, kẻ thủ của Athens, mà Syracuse lại cũng là đồng minh của Sparta. Ban đầu chính quyền Kennedy đưa tới Việt Nam Lực lượng Đặc biệt có giới hạn, cam kết này sau đó đã gia tăng dưới thời Lyndon Johnson và lên đến nửa triệu quân chính quy. Điều này cũng tương tự như việc Athens bắt đầu can thiệp vào Sicily ban đầu với 20 chiến thuyền nhằm hỗ trợ cho liên minh chống Syracuse, nhưng sau đó đã nhanh chóng gia tăng tới 100 tàu chiến, rất nhiều tàu vận tải cũng như 5.000 lính hoplites (lính trang bị nặng với khiên và giáo dài – ND), vì thế có thể cho rằng toàn bộ danh tiếng của đế quốc hàng hải Athens sẽ phụ thuộc vào chiến thắng quân sự tại hòn đảo Sicily xa xôi. Athens tiếp tục đổ thêm quân. Cuộc phiêu lưu quân sự tại Sicily kết thúc với việc 40.000 lính Athens tử trận, 6.000 người sống sót bị bắt làm việc ở các mỏ đá của Syracuse hay bị bán làm nô lệ. Quá trình can thiệp của người Mỹ vào Việt Nam kết thúc với việc quân đội Bắc Việt chiếm được miền Nam, và người Mỹ cuối cùng tháo chạy bằng trực thăng từ mái nhà của Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn. 

Toàn bộ quốc gia gần như bị tê liệt bởi sự bi quan và giới tinh hoa liên tục đỗ lỗi cho nhau về thất bại tại Sicily, và cũng cần phải mất một khoảng thời gian trước khi Athens có thể hồi phục và lại tích cực tham gia vào thế đối đầu lưỡng cực với Sparta. Sau cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ cũng trải qua hàng loạt khủng hoảng về niềm tin theo, đã lưỡng lự khi Liên Xô và đồng minh đe doạ các đồng minh của Hoa Kỳ cũng như lật đổ hàng loạt chế độ tại Nicaragua, Angola, Ethiopia, và Afghanistan. Hiện nay, số phận của Việt Nam lại một lần nữa giao nhau với số phận của Hoa Kỳ. Một lần nữa người Việt Nam lại yêu cầu người Mỹ giúp đỡ. Lần này cái cớ được đưa ra khá tế nhị và lặng lẽ, và cũng không yêu cầu các đơn vị bộ binh. Lần này họ không yêu cầu nước Mỹ tham gia đánh nhau: họ chỉ muốn Mỹ duy trì cân bằng quyền lực. Việt Nam muốn Hoa Kỳ hiện diện mạnh mẽ hơn về mặt hải quân và không quân ở biển Đông trong những thập kỷ tới. Việt Nam với số phận của mình, dù là một quốc gia nửa phụ thuộc vào Trung Quốc hay một quốc gia cố gắng kháng cự mạnh mẽ bá quyền của Trung Quốc, cho chúng ta thấy ví dụ rõ ràng về một thế giới nhiều rủi ro một khi Hoa Kỳ yếu đi; hay nếu như Hoa Kỳ trở lại thời kỳ chủ nghĩa bán-biệt lập hoặc hướng sự chú ý của mình tới một nơi nào khác.

Kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn , chúng ta biết như thế. Nhưng khả năng suy giảm của Hoa Kỳ, hay ít nhất là khả năng rút một phần các lực lượng quân sự ở các nơi khác trên thế giới về nước, cũng nên được xem xét. Nền kinh tế Hoa Kỳ đang trên đà hồi phục sau khủng hoảng kinh tế được coi là tồi tệ nhất kể từ Đại Suy thoái. Trong khi đó, giá thành của các hệ thống vũ khí cho không quân và hải quân lại đang ngày càng trở nên đắt đỏ và khó tiếp cận hơn. Giá của một tàu sân bay lớp Gerald R. Ford là 12 tỷ USD, chưa kể máy bay hay các thiết bị khác. Giá của một khu trục hạm lớp Zumwalt mới nhất là gần 4 tỷ USD. Máy bay chiến đấu F-22 Raptor cũng có giá 200 triệu USD một chiếc, còn F-35 là 135 triệu USD. Bên cạnh yếu tố chi phí cho quá trình triển lực lượng trên toàn thế giới – đặc biệt là ở Đông Á – công chúng Hoa Kỳ cũng như một số giới tinh hoa chính trị và đối ngoại có ảnh hưởng ở Washington đã cảm thấy về vai trò toàn cầu mang tính đế quốc chủ nghĩa, theo sau những chi phí quá lớn về mặt nhân lực, uy tín ngoại giao và tiền bạc cho các cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan. Chiến tranh Iraq , một cuộc phiêu liêu quân sự xa xôi giống như ở Việt Nam, dù không kết thúc một cách ô nhục hay cái giá phải trả về nhân mạng như thế, nhưng vẫn có thể so sánh với cuộc chiến ở Sicily của Athens. Liệu Hoa Kỳ có đánh mất sự tự tin của mình ở châu Á, như đã từng xảy ra sau cuộc chiến Việt Nam, hay như Athens sau cuộc phiêu lưu thất bại ở Sicily hay không?

Theo sau chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh Lạnh với Liên Xô , đối thủ chính, đã giữ cho Hoa Kỳ tiếp tục tham dự vào công việc của thế giới. Nhưng, hiện nay, các mối đe doạ mơ hồ hơn. Ví dụ, sức mạnh nguy hiểm nhất ở biển Đông, Trung Quốc. Trong khi thế kỷ ô nhục (century of humiliation) dưới bàn tay của phương Tây “là giai đoạn bị acid đục thủng trên những trang sách giáo khoa của học sinh hiện nay”, như nhà sử học Piers Brendon , thuộc Đại học Cambridge , viết, “người Trung Quốc không hẳn là tù nhân của lịch sử, họ có những lý do quan trọng về mặt kinh tế để tìm kiếm sự đồng hành cùng có lợi với Hoa Kỳ”. Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy. Lập luận phản bác hay nhất chống lại Brendon được John Mearsheimer đưa ra trong tác phẩm The Tragedy of Great Power Politics . Ông giải thích rằng vì hệ thống quốc tế là vô chính phủ, không có người chịu trách nhiệm – không có người canh gác cho thế giới – để đảm bảo luật lệ được thực thi, thực sự không có nhiều cường quốc đúng nghĩa: mục đích của mỗi cường quốc – dù dân chủ hay không, thì các đặc trưng nội tại của chúng không có nhiều khác biệt – “là để tối đa hoá phần của mình trong hệ thống quyền lực quốc tế,” và vì thế “các quốc gia đặc biệt hùng mạnh sẽ theo đuổi bá quyền khu vực”. Hàm ý ở đây là Trung Quốc sẽ theo đuổi bá quyền khu vực như là một xu hướng tất yếu, bất chấp việc hệ thống chính trị của quốc gia này có trở nên cởi mở hơn hay không. Một nền kinh tế phát triển chậm lại của Trung Quốc sẽ chỉ làm cho quốc gia này trở nên dân tộc chủ nghĩa hơn mà thôi.

Trên thực tế, cả Brendon và Mearsheimer đều có thể đúng. Trung Quốc dường như vừa mong muốn “cùng chung sống” với Hoa Kỳ, lại vừa muốn làm bá chủ khu vực. Trung Quốc sẽ tiếp tục xây dựng một lực lượng hải quân viễn dương, cùng với không quân và tên lửa đi kèm. Các vũ khí thiết bị này sẽ tập trung chủ yếu ở biển Đông, nếu kiểm soát được khu vực sẽ giúp Trung Quốc khẳng định được bá quyền. Đồng thời, Bắc Kinh sẽ làm việc không ngừng nghỉ nhằm theo đuổi các mối quan hệ kinh tế và chính trị tốt đẹp với Washington. Washington, đến lượt mình, sẽ chống lại các bước đi của Bắc Kinh nhằm thống trị khu vực, thậm chí ngay cả khi Hoa Kỳ hợp tác với Trung Quốc trong nhiều vấn đề khác nhau. Biển Đông, cũng như biển Hoa Đông hay bán đảo Triều Tiên, sẽ là vũ đài trung tâm cho mối quan hệ căng thẳng và mâu thuẫn này. Con đường trở thành bá chủ bán đảo Triều Tiên của Trung Quốc – vì sự bất định xung quanh tương lai của Triều Tiên – là khó khăn và hoàn toàn không rõ ràng nếu so sánh với biển Đông, nơi mà Trung Quốc chỉ phải đối mặt với một khối các quốc gia tương đối yếu và bị chia rẻ, trong đó mạnh nhất là Việt Nam. Vì thế biển Đông, hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới, một lần nữa lại là ví dụ cho cái giá của sự suy giảm sức mạnh của Hoa Kỳ, hay thậm chí là việc rút một phần lực lượng của Mỹ khỏi các căn cứ quân sự. Biển Đông cho thấy rõ Hoa Kỳ có thể cung cấp cái gì cho thế giới khi nó đang gặp rủi ro, đồng thời cũng cho thấy điều tồi tệ nào có thể xảy ra với thế giới khi nó trở thành thực sự đa cực, theo nghĩa không quân và hải quân.

Bời vì Hoa Kỳ đang thống trị Tây bán cầu, và cũng có dư sức mạnh để cân bằng quyền lực ở Đông bán cầu, cho nên Hoa Kỳ không chỉ gìn giữ hoà bình (mặc dù đâu đó vẫn xuất hiện các cuộc chiến tranh nhỏ) mà còn bảo vệ các tài sản chung mang tính toàn cầu, ở đây là các tuyền đường hàng hải tạo điều kiện cho thương mại quốc tế. Nếu không có các lực lượng không quân và hải quân Hoa Kỳ, toàn cầu hoá như chúng ta biết hiện nay là bất khả thi. Sự kiện là Nga vẫn đang mắc kẹt trong những nỗ lực nhằm xâm phạm chủ quyền của các quốc gia ở Đông và Trung Âu; sự kiện là Trung Đông cho tới nay ít nhất là đã tránh được những cuộc thảm sát theo kiểu Holocaust ; sự kiện là Ấn Độ và Pakistan đã không xảy ra chiến tranh tổng lực trong hàng thập kỷ, và cũng chưa bao giờ sử dụng kho vũ khí hạt nhân của mình ; sự kiện là Bắc Triều Tiên gần như đe doạ tấn công tổng lực Hàn Quốc và Nhật Bản nhưng chưa bao giờ dám thực sự làm như vậy; tất cả phần lớn đều là do chiếc ô an ninh toàn cầu của Hoa Kỳ. Những quốc gia nhỏ và dễ bị tổn thương như Israel hay Gruzia có thể tồn tại được là do các hỗ trợ quân sự mà Hoa Kỳ. Chính nhờ các lực lượng không quân và hải quân được triển khai trên khắp thế giới mà nền ngoại giao Hoa Kỳ mới có sức mạnh như hiện nay và sử dụng sức mạnh này để ủng hộ dân chủ cũng như những xã hội tự do hơn trên toàn thế giới. Quá trình cắt giảm sự hiện diện quân sự mạnh mẽ của Hoa Kỳ sẽ làm cho thế giới – đặc biệt là biển Đông – trở thành khác hẳn hiện nay.

Hoa Kỳ đang cố gắng buộc Trung Quốc phải trung thực: bằng việc hạn chế thái độ hung hăng của Trung Quốc vào những tấm bản đồ của họ, buộc giới ngoại giao và hải quân của Trung Quốc phải hành động một cách hữu lý. Điều này không có nghĩa là các hành động của Hoa Kỳ là hoàn toàn trong sạch và Trung Quốc là côn đồ. Ví dụ, Hoa Kỳ tiến hành các hoạt động do thám Trung Quốc một cách bí mật và thường xuyên ở Tây Thái Bình Dương nhưng họ sẽ khó chấp nhận nếu bị một cường quốc đối thủ nào đó như thế gần vùng biển của mình. Không phải những giá trị dân chủ của Hoa Kỳ , mà sức mạnh nhằm đối đầu với Trung Quốc là mang lại nhiều lợi ích hơn cho các quốc gia ở biển Đông. Chính sự cân bằng quyền lực giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là thứ đã giữ cho Đài Loan, Việt Nam, Malaysia, Philippines, Indonesia và Singapore được tự do, có thể dựa vào nước này để chống lạ nước kia. Và bên trong môi trường tự do đó, chủ nghĩa khu vực, dưới vỏ bọc là ASEAN, có thể trỗi dậy như là một quyền lực riêng. Dù sao, quyền tự do đó không phải là do Tạo Hoá ban cho. Vì cuộc đối đầu có phần gay gắt vẫn đang tiếp diễn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc – mà thế bế tắc đã tạo ra một loạt các vấn đề phức tạp, từ chiến tranh mạng cho tới chiến tranh thương mại, từ cải cách tiền tệ cho tới theo dõi tiềm lực quân sự của nhau – có khả năng đang dần nghiêng về phía Bắc Kinh do sự phát triển kinh tế quá nhanh chóng của nước này (thậm chí ngay cả khi tăng trưởng đã suy giảm), cùng với là lợi là Trung Quốc nằm ở trung tâm của Đông Á và Tây Thái Bình Dương. 

Andrew F. Krepinevich, giám đốc Trung tâm phân tích Chiến lược và Ngân sách (Center for Strategic and Budgetary Assessment – CSBA) ở Washington, tin rằng các quốc gia ở khu vực Tây Thái Bình Dương đang dần dần bị “Phần Lan hoá” bởi Trung Quốc, có nghĩa rằng các nước này sẽ duy trì được độc lập trên danh nghĩa, nhưng cuối cùng vẫn sẽ đi theo các quy tắc đối ngoại do Bắc Kinh thiết lập. Ông chỉ ra rằng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) coi mạng lưới chiến tranh của Hoa Kỳ – “dựa chủ yếu vào các vệ tinh và mạng Internet để định vị mục tiêu, phối hợp tấn công, dẫn hướng cho các loại bom thông minh và nhiều nhiệm vụ khác” – như là gót chân Achilles” của Hoa Kỳ. Người Trung Quốc, cũng theo Andrew, năm 2007 đã thử nghiệm tên lửa chống vệ tinh , và cũng được cho là đã sử dụng laser để làm mù tạm thời các vệ tinh của Hoa Kỳ, cũng như đã tiến hành tấn công trên không gian mạng vào các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ trong suốt nhiều năm qua. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng có nhiều loại tên lửa đối hạm, tên lửa đạn đạo và các vũ khí chống xâm nhập/chống tiếp cận khác, có khả năng được sử dụng nhằm kiềm chế các căn cứ quân sự tiền phương của Hoa Kỳ ở châu Á . Theo Mark Helprin, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Claremont ở California (Claremont Institute), “Trung Quốc đang sở hữu khả năng tốt nhất của mình” trong việc dùng các vệ tinh thông thường cũng như nhiều loại vệ tinh nhỏ hơn, hay mạng lưới các hệ thống định vị tín hiệu theo thời gian thực trên không, trên bộ cũng như dưới mặt biển để định hướng 1.500 tên lửa đạn đạo tầm ngắn” có thể tấn công các tàu sân bay của Hoa Kỳ. Mục tiêu không phải là gây chiến, mà là để sắp xếp lại lực lượng sao cho, Đài Loan và thậm chí là cả khu vực Tây Thái Bình Dương, ngày càng không còn tin rằng lực lượng quân sự Hoa Kỳ có đủ khả năng để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Mất tín nhiệm sẽ làm cho các liên minh Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương suy yếu. Thực vậy, quá trình Phần Lan hoá Đông Nam Á có thể là mảng tối trong thế giới đa cực về mặt quân sự. 

Đa cực về quân sự thực sự sẽ có lợi cho quốc gia có vị thế địa chính trị trung tâm ở khu vực mà ta đang nói tới: cụ thể là Trung Quốc ở khu vực Đông Á. Nếu vị thế quân sự là tương đương nhau, thì địa lý và dân số sẽ tạo ra lợi thế. Nói cách khác, một châu Á đa cực xét về mặt quân sự sẽ là một châu Á bị Trung Quốc thống trị. Và sự thống trị của Trung Quốc ở châu Á sẽ khác hoàn toàn với sự thống trị của Hoa Kỳ. Vì Trung Quốc không nằm cách khu vực này nửa vòng trái đất, mà trên thực tế là người tổ chức về kinh tế, dân số và địa lý của cả khu vực, sự thống trị của Trung Quốc đương nhiên là sẽ có tính áp đảo hơn hẳn. Đó là còn chưa nói tới chế độ chuyên chế của Trung Quốc, mặc dù không khắc nghiệt như nhiều chính thể độc tài khác – và có trình độ hơn hẳn đa số các chính thể độc tài – nhưng vẫn không thể mềm mỏng như mô hình cai trị của Hoa Kỳ, đến lượt nó mô hình này phần nào quyết định phong cách đế quốc của nước Mỹ.

Nhưng, không được nhầm lẫn giữa hệ thống đa cực quân sự với cân bằng quyền lực. Vì cân bằng quyền lực ở châu Á đòi hỏi sự vượt trội về quân sự của Hoa Kỳ nhằm bù đắp cho các ưu thế về mặt địa lý, dân số và kinh tế của Trung Quốc. Cũng nhất thiết có nghĩa là ưu thế quân sự của Hoa Kỳ đang suy giảm nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây. Trên thực tế, uy thế quân sự của Hoa Kỳ tại khu vực châu Á có thể chống đỡ được quá trình suy giảm này, ngay cả khi có sự cắt giảm ngân sách trong tương lai, một khi các lợi thế rõ ràng của Hoa Kỳ so với quân đội Trung Quốc trong những lĩnh vực quan trọng vẫn được duy trì. Chính yếu tố này sẽ giúp duy trì cân bằng quyền lực.

Hệ thống đa cực hoạt động ổn thoả về mặt ngoại giao và kinh tế. Rõ ràng là vị thế của Hoa Kỳ ở châu Á cuối cùng sẽ dựa nhiều vào sự sẵn sàng tham gia vào các mối quan hệ thương mại tự do mới hay tham gia “hoàn toàn” vào các thể chế kinh tế đa phương ở khu vực, vì Đông Á là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế thế giới. Chỉ khi tự thâm nhập sâu hơn vào nền thương mại khu vực thì Hoa Kỳ mới có đủ lợi ích để tiếp tục bảo vệ các tuyến đường hàng hải quan trọng ở Tây Thái Bình Dương. Thế nhưng hệ thống đa cực hoàn toàn trong tất cả lĩnh vực sẽ biến biển Đông thành Ca-ri-bê của Trung Quốc và đến lượt nó đặt Trung Quốc vào vị thế kẻ thống trị ở cả Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Trong hệ thống thương mại Á-Âu, chủ yếu là hàng hải, việc Trung Quốc là người dẫn đầu có thể được chấp nhận, với điều kiện là hải quân Hoa Kỳ vẫn hiện diện trong vai trò cân bằng cán cân quyền lực. 

Kết luận toàn diện nhất về khung cảnh địa chính trị mới ở châu Á không phải đến từ Washington hay Bắc Kinh, mà là từ Canberra. Trong một bài viết dài 71 trang nhan đề Chuyển dịch quyền lực: Tương lai của Australia giữa Washington và Bắc Kinh (Power Shift: Australia’s Future between Washington and Beijing), Giáo sư Hugh White, chuyên gia về chiến lược tại Đại học Quốc gia Australia (Uastralian National University) và là một cựu nhân viên phân tích tình báo của chính phủ, đã mô tả đất nước ông như là một cường quốc muốn giữ “nguyên trạng”: một quốc gia đang hết sức muốn châu Á giữ nguyên hiện trạng, với việc Trung Quốc đang tiếp tục tăng trưởng, để Australia có thể buôn bán ngày càng nhiều hơn với nước này, và nước Mỹ vẫn tiếp tục là “siêu cường mạnh nhất ở châu Á,” trở thành “người bảo vệ cuối cùng” của Australia. Nhưng như White nói, vấn đề ở đây là hai việc trên không thể xảy ra cùng một lúc. Châu Á không thể tiếp tục thay đổi về mặt kinh tế mà không thay đổi về mặt chính trị và chiến lược. Cụ thể, nếu Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng kinh tế như dự báo (cho dù với một tốc độ thấp hơn nhiều), thì quốc gia này sẽ thay thế Hoa Kỳ để trở thành quốc gia thịnh vượng nhất (không phải theo thu nhập bình quân đầu người), và theo lẽ tự nhiên, sẽ không hài lòng với sự thống trị về mặt quân sự của Hoa Kỳ ở châu Á. 

Giáo sư White nhận xét rằng, cái được cho là đã tạo ra hàng thập kỷ tràn đầy hạnh phúc ở châu Á – những thứ mà chúng ta cho là hiển nhiên – thực chất là một “phần của chiến lược ngoại giao tuyệt vời” mà Tổng thống Richard Nixon và cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger là kiến trúc sư. Nixon và Kissinger tới Bắc Kinh vào năm 1972 để ký thoả thuận với lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông, theo đó “Nước Mỹ sẽ thôi công nhận chính phủ dân quốc ở Đài Loan là chính phủ đại diện cho toàn Trung Quốc…Đổi lại, Trung Quốc chấm dứt cạnh tranh với Hoa Kỳ ở châu Á và ngừng ủng hộ những cuộc nổi dậy của cộng sản ở khu vực [ít nhất với một mức độ tương đương nhau]”. Trung Quốc cũng được Hoa Kỳ bảo vệ trong cuộc đấu tranh chống lại Liên Xô, cũng như bảo đảm chống lại nước Nhật đang trỗi dậy về kinh tế. Điều này đã giúp cho Trung Quốc trong một vài năm sau đó có đủ môi trường an ninh để tự do hoá nền kinh tế, tạo ra lợi ích to lớn cho toàn thể khu vực. Hoà bình đã nằm trong tầm tay, và hiện nay các quốc gia ở Đông Nam Á – những quốc gia “bị bỏ mặc” trước đây – sẽ bùng nổ về mặt kinh tế. 

Việc Trung Quốc, dưới thời Đặng Tiểu Bình , từ bỏ mô hình kinh tế Marxist vào năm 1979 đã tạo điều kiện cho quốc gia này hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, tuy có trễ hơn phương Tây gần một thế kỷ. Một khi đã làm như thế, dân số khổng lồ của Trung Quốc đảm bảo cho đất nước trở thành một trong những nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới, làm cho môi trường an ninh ở châu Á hiện nay hoàn toàn khác so với một môi trường có phần hoà bình mà Nixon và Kissinger đã tạo dựng. 

Vậy, hiện nay Trung Quốc muốn gì? White thừa nhận rằng Trung Quốc có thể mong muốn một đế quốc kiểu mới tại châu Á, tương tự như những thứ mà Hoa Kỳ đã gây dựng ở Tây Bán Cầu, như Washington đã từng đảm bảo được sự thống trị của mình ở Ca-ri-bê (Trung Quốc tin rằng họ phải thống trị ở biển Đông). Đế quốc kiểu mới này ở Tây Bán Cầu, theo lời White, có nghĩa là các lân bang của Hoa Kỳ sẽ “không ít thì nhiều có thể tự điều hành quốc gia của họ”, thậm chí Washington còn khẳng định rằng các quan điểm của mình đã “hoàn toàn được thừa nhận” và đã đi trước “tất cả các quốc gia khác ở bên ngoài Tây Bán Cầu”. Rắc rối của mô hình này là Nhật Bản, nước này sẽ không chấp nhận bá quyền của Trung Quốc, dù là bá quyền mềm mỏng đến đâu. Còn lại là mô hình “Cân bằng quyền lực ở châu Âu” (Concert of Europe) thế kỷ XIX, trong đó, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ hay có lẽ thêm một hoặc hai quốc gia khác sẽ là đóng vai trò cân bằng lẫn nhau tại châu Á. Nhưng, hiện nay, câu hỏi đặt ra là liệu Hoa Kỳ có chấp nhân mô hình này hay không vì Washington liên kết sự ổn định và thịnh vượng của châu Á với uy thế của chính mình. White cho rằng trước một Trung Quốc đang ngóc đầu dậy, từ đây trở đi sự thống trị của Hoa Kỳ có thể đồng nghĩa với một châu Á bất ổn. Sự thống trị của Hoa Kỳ được xây dựng dựa trên khái niệm cho rằng vì Trung Quốc là nhà nước toàn trị, nên quốc gia này sẽ hành động một cách “không thể chấp nhận được ở bên ngoài.” Nhưng White cho rằng lập luận đó có thể không đúng. 

Nói cách khác, trong tương lai, Hoa Kỳ chứ không phải Trung Quốc mới chính là vấn đề. Chúng ta, đặc biệt là giới trí thức và phóng viên, dường như đang quan tâm một cách thái quá về bản chất nội tại của chế độ ở Trung Quốc. Nhưng chế độ đó có thể dễ dàng hành động một cách bất lương ở trong nước, nhưng đồng thời vẫn rất có trách nhiệm ở nước ngoài – một lý do nữa giải thích vì sao sự trỗi dậy của châu Á có thể xa lạ với những người theo chủ nghĩa văn thuộc mọi thành phần. Như tôi đã nói, mục tiêu của Hoa Kỳ phải là cân bằng, chứ không phải thống trị. Trong mọi trường hợp, bởi vì trong vòng bốn thập kỷ tới, châu Á sẽ có thể trở nên kém an ninh hơn bốn thập kỷ trước đây, White cho rằng Australia có thể sẽ phải “chi tiêu nhiều hơn cho quốc phòng và xây dựng một lực lượng quân sự có năng lực hơn”. Điều tương tự cũng đúng đối với tất cả các quốc gia ở châu Á. Biển cả sẽ đầy các loại vũ khí.

Sức mạnh hải quân được sử dụng vào việc gì? Trong nửa đầu thế kỷ XXI, biển Đông có thể trả lời cho công chúng Hoa Kỳ câu hỏi này. Trong một thời gian dài hải quân Hoa Kỳ đã tìm cách giải thích các nhiệm vụ của mình cho công chúng: tại sao hải quân lại chi hàng trăm tỷ USD để mua hàng trăm tàu chiến mà người dân bình thường chưa bao giờ thấy – trừ khi họ sống gần căn cứ quân sự – hay thậm chí chỉ được đọc trên các tờ báo. Trong thập kỷ trước, có rất nhiều bài báo viết về lục quân tham gia vào những cuộc chiến tranh như ở Afghanistan hay Iraq . Những thử thách hay khổ cực mà lục quân phải chịu đựng ám ảnh giới truyền thông: lực lượng thuỷ quân lục chiến cũng vậy, vốn được xây dựng để thực hiện các nhiệm vụ đổ bộ đường biển, nay đã trở thành một lực lượng tham gia vào các cuộc chiến tranh trên bộ tại Trung Đông . Nhưng mọi chuyện có thể thay đổi khi hai cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq kết thúc, và quá trình trỗi dậy liên tục của Trung Quốc làm cho môi trường an ninh Đông Á trở thành khác trước và ít ổn định hơn. Và bởi vì châu Á chủ yếu là không gian hàng hải, điều này sẽ giúp cho hải quân Hoa Kỳ tìm được các sứ mệnh hấp dẫn mà lực lượng này dường như còn thiếu. Nhưng câu hỏi là, liệu sứ mệnh ấy có xuất hiện đúng lúc nhằm giúp các quốc gia ở biển Đông – trung tâm hàng hải của Đông Á – không bị Phần Lan hoá hay không? John Morgan, phó Đô đốc hải quân Hoa Kỳ đã nghỉ hưu, lo ngại rằng nước Mỹ, với các khoản cắt giảm về mặt ngân sách quốc phòng sắp tới, sẽ vướng phải “sai lầm lớn về mặt hàng hải.” Đó chính là việc lực lượng hải quân Hoa Kỳ bị cắt giảm đúng vào thời điểm lịch sử, khi mà thế giới đang cần sức mạnh hải quân đó cân bằng quyền lực, giúp các quốc gia như Đài Loan hay Việt Nam được tự do. Việc giúp Việt Nam phòng thủ về mặt quân sự không được công chúng ưa thích, đặc biệt khi nhắc tới lịch sử của Hoa Kỳ với Việt Nam trong thế kỷ XX. Nhưng chính tự do sẽ là thứ mà một quốc gia như Việt Nam sẽ đưa lên thành biểu tượng, và điều này là quan trọng cho tương lai của chính nước Mỹ. Một lần nữa, không chỉ có các giá trị của chúng ta mới quan trọng, mà quan trọng là sức mạnh quân sự có khả năng hỗ trợ cho các giá trị ấy.

Đúng là, trong các vấn đề quốc tế, đằng sau mọi vấn đề về đạo đức chính là vấn đề quyền lực. Can thiệp nhân đạo ở Balkans vào những năm 1990 xảy ra là do chính quyền Serbia không phải là một cường quốc có vũ khí hạt nhân, khác với chính quyền Nga, trong cùng thời điểm đó đã vi phạm tội ác quy mô lớn như thế ở Chechnya và phương Tây đã không có bất kỳ phản ứng nào; cũng như phương Tây đã không làm gì để chống lại các vụ thanh trừng sắc tộc ở Caucasus do khu vực đó thuộc ảnh hưởng của Nga. Ở Tây Thái Bình dương trong những thập kỷ tới, đạo đức trong trường hợp này có nghĩa là từ bỏ một số giá trị tốt đẹp nhất của chúng ta để đổi lấy ổn định. Chúng ta sẽ phải làm như thế nào để chừa chỗ cho một nước Trung Quốc bán-chuyên chế, trong khi năng lực quân sự của nó tăng lên? (nếu nước này không bị sụp đổ về xã hội và kinh tế ngay từ bên trong thì lực lượng quân sự của họ sẽ tiếp tục bành trướng ) . Vì tự thân cân bằng quyền lực còn là công cụ duy trì dự do tốt hơn cả các giá trị tự do của phương Tây. Đó cũng sẽ là một bài học của biển Đông trong thế kỷ XXI – điều mà những người theo chủ nghĩa nhân văn không bao giờ muốn chấp nhận.

Nguồn: Blog Phạm Nguyên Trường

Bài Liên Quan